Pháp Sư Diễn Bồi giảng bằng tiếng Trung Hoa
TK Thích Minh Trí dịch Việt
TKN Hiền Tịnh toát yếu
PL. 2544 - 2001
Khuyên ai cũng nên xem
để phát tâm thọ giới Bồ-tát
I. KỆ KHAI SUỐI CAM LỒ
Nay ta Phật Thích Ca
Cũng như đức Xá Na
Mỗi nửa tháng hằng tụng
Ba la đề mộc xoa.
Ta là Phật đã thành
Các ngươi, Phật sẽ thành
Thường tin chắc như vậy
Giới phẩm đã trọn vẹn.
Những ai đã có tâm
Nên dạy thọ trì giới
Chúng sanh thọ Phật giới
Đích thật là con Phật.
Bồ-tát như vi trần
Nhân giới này thành Phật.
Đại chúng phải cung kính
Truyền bá và thọ trì.
II. TỰA
Có người cho rằng Bồ-tát
giới chỉ căn cứ vào đại thể, không câu chấp chi tiết. Ý kiến này vô cùng sai
lầm. Phải biết giới Bồ-tát nghiêm cẩn đến mức ngăn cấm ngay từ mống tâm động
niệm khởi tư tưởng phi pháp. Trong khi luật nghi Thanh-văn chỉ trị phạt hai chi
thân và miệng. Phòng hộ trọn vẹn ba nghiệp, phá trừ các kiến chấp, chứng nhập
chân lý, mới được gọi là chân phạm hạnh.
Nhiêu ích hữu tình giới
lấy sự cứu tế chúng sanh làm gốc. Bồ-tát, danh phù hợp với thật, chính ở chỗ
phải làm thế nào lừa lọc mò bắt tất cả chúng sanh trong biển khổ sanh tử đem về
cảnh giới Niết-bàn an ổn.
Mành lưới bảo tràng
trong cung Đại Phạm Thiên Vương. Những đường hồng quang ửng xạ lẫn nhau. Màu
sắc bảo châu chói sáng lẫn nhau, lớp lớp vô tận. Phật dùng để thí dụ vô lượng
pháp môn, sự lý kết chặt.
Có vâng giữ Kim Cang
Quang Minh Bảo Giới, tu tập các pháp lành tăng trưởng Bồ-đề tâm mới được diệu
quả thù thắng.
Bồ Tát Tâm Địa phẩm,
quyển thượng giảng về giai cấp tu chứng, lý trí quán hạnh của 56 ngôi Bồ-tát.
Quyển hạ nói về tâm địa giới pháp (10 trọng + 48 khinh).
Bồ-tát
: Lợi mình lợi người, mục
đích thành Phật.
Tâm
địa : Bổn nguyên của mỗi
người. Phật chứng tâm địa này. Bồ-tát tu tâm địa này. Chúng sanh mê muội tâm
địa này. Phật đã 8000 lần qua lại tam giới, mục đích duy nhất là phát minh bổn
nguyên tâm địa cho chúng sanh. Khuyên tất cả bẩm thọ bảo giới Phật tánh làm chỗ
tu nhân căn bản, hướng về Phật quả thẳng tiến.
Tạp nhiễm phiền não chỉ
là khách trần. Y tâm địa giới pháp, từ sơ phát tâm lên đẳng giác, dần dần hoàn
mãn muôn pháp lành, tước bỏ hết ác pháp. Căn bản phiền não : Tham sân si mạn
nghi, ác kiến (biên kiến, thiên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ). Hàng
ngày kiểm điểm để khắc phục : phẫn, hận, phú, não, tật, xan, cuống, siểm, hại,
kiêu, vô tàm, vô quý, trạo cử, hôn trầm, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất
niệm, tán loạn, bất chánh tri.
Đức Phật vừa thành đạo,
lập tức xuất định nói pháp ở 10 nơi :
1/- Kim Cang Hoa Quang
(gốc Bồ-đề) và Diệu Quang Đường (cung trời Tứ Thiên Vương) nói về thập Tín.
2/- Cung trời Đế Thích,
nói thập Trụ.
3/- Cung trời Diệm Ma,
nói 10 Hạnh.
4/- Đâu Suất, nói 10 Hồi
Hướng.
5/- Hóa lạc, nói 10
Định.
6/- Tha Hóa Tự Tại, nói
10 Địa.
7/- Sơ thiền, nói 10 Kim
Cang.
8/- Nhị thiền, nói 10
Nhẫn.
9/- Tam thiền, nói 10
Nguyện.
10/- Tứ thiền, ở
cung Đại Tự Tại Thiên Vương, giảng nói pháp môn tâm địa mà đức Lư Xá Na đã
giảng ở Liên Hoa Đài Tạng.
Quang
minh : phá u ám. Kim Cang : phá
hủy tất cả phiền não. Bảo : quý trọng. Bảo giới xuất sanh vô lượng công
đức, khiến thiện pháp tăng trưởng.
Quang minh là trí đức,
nhiếp thiện pháp giới (viên mãn báo thân). Kim cang là đoạn đức, nhiếp luật
nghi giới (vô lậu tánh, chứng thanh tịnh pháp thân). Bảo giới là ân đức, nhiếp
hộ chúng sanh, cứu tế muôn vật, lợi ích khắp hữu tình (ứng hóa thân).
Giới pháp này bao hàm
nhân quả đại thừa. Rời quang minh kim cang bảo giới, 30 Tâm (Hiền) và 10 Địa
(Thánh) không thể nào thành tựu. Công đức Phật địa không do đâu phát sanh. Tánh
trọng yếu của tâm địa diệu giới cần được nhận thức rõ ràng. Phật tánh chúng
sanh sẵn có, phải nhờ bảo giới này mới hiển lộ. Nên nói giới là chủng tử của
Phật tánh. Kinh Pháp Hoa nói : “Phật chủng tòng duyên khởi” là ý này. Trì tâm
địa diệu giới mới chứng đắc tâm địa pháp môn.
Chánh
văn : Tất cả ý thức, sắc tâm,
là tình là tâm, đều vào trong phạm vi giới pháp Phật tánh.
Tâm
: vọng niệm theo duyên tập
khởi. Ý : tư lường, thức 7 chấp ngã. Thức : thức 6 liễu biệt. Ba
thứ này là phần tinh thần. Sắc : 4 đại vật chất. Ngoài tâm thức không có
Phật tánh riêng biệt. Tất cả hữu tình đều có thể bẩm thọ tâm địa diệu giới.
Đương đương thường hữu
nhân cố đương đương thường trụ pháp thân.
Đương
đương : đích thật như vậy.
Nhân và quả đều không
lìa tâm địa diệu giới.
Thường
hữu : lúc nào cũng có chân nhân
thành Phật.
Thường
trụ : diệu quả vĩnh viễn
thường hằng, không thể do từ bên ngoài mà có. Chính do Phật tánh sẵn đủ, cực
lực trang nghiêm khai phát mà thành.
Quang Minh Kim Cang Bảo
Giới là chân nhân thành Phật, là pháp thân diệu quả thường trụ thanh tịnh.
Nương giới hết vô minh
nên ví giới như mặt trời mặt trăng. Nương giới hết khổ nạn nên ví giới như châu
ma ni.
Bổn tánh không độc ác
nên có giới sát sanh. Bổn tánh không tham nên răn cấm trộm cướp. Bổn tánh chân
thật nên không được nói dối. Sống ngược với tự tánh thì khó trở về. Thuận với
tự tánh mới ngộ nhập.
Giới pháp Phật tánh là
nhân tố duy nhất để thành Phật. Chúng sanh sẵn đủ nhân thù thắng để chứng quả
thù thắng. Chỉ vì mê hoặc không giác ngộ. Đức Phật xót thương tuyên nói giới
pháp. Chúng sanh y đó giữ gìn, siêu phàm nhập thánh, hoàn thành Vô-thượng Phật
quả.
Do đâu các Bồ-tát thành
Phật ? Xin đáp quả quyết rằng : Vì giữ đủ 10 giới trọng. Không vâng theo pháp
tắc quy luật này, không thể thành Phật nên kinh văn gọi là giới pháp. Thọ
Bồ-tát giới rồi là vào trường học Bồ-tát. Trong thì y cứ Phật tánh giới thể mà
sống. Ngoài thì giới tướng nghiêm trì.
Ngộ Phật tánh chưa đủ,
phải chứng được Phật tánh. Nghĩa là thật sống với Phật tánh, từng niệm xa rời
vô minh. Ngài Xá Lợi Phất chứng A-la-hán mà không dám xưng mình là Phật tử. Đến
hội Pháp Hoa, Phật giải thích. Ngài mới nhận ra rằng mình có Diệu Pháp Liên
Hoa. Nhân đây được Phật thọ ký.
Kinh
Anh Lạc : Giới pháp lấy tâm làm
thể. Tâm vô tận nên gọi là vô tận giới tạng. Giới tướng có nhiều nhưng tâm địa
diệu giới nhất vị bình đẳng.
Chúng sanh vọng tưởng
chấp trước vào giới tướng mà quên giới thể bổn hữu, giới pháp Phật tánh sẵn đủ.
Nếu không bẩm thọ giới pháp không thể khôi phục bổn nguyên tự tánh thanh tịnh.
Vì thế đức Phật nói vô tận giới tạng.
III. XÁ NA TRAO GIỚI
Tỳ
Lư Xá Na : quang
minh biến chiếu.
Lư
Xá Na : tịnh mãn : đã đến quả
Phật.
Tịnh
: Không còn mẩy tơ hư
vọng. Mãn : Công đức thiện pháp viên tròn. Tịnh là đoạn đức. Mãn là trí
đức. Tịnh Mãn là tự thọ dụng thân. Quang minh biến chiếu là tha thọ dụng thân,
sát trần tướng hảo, trong dùng trí quang chiếu chân pháp giới, ngoài dùng thân
quang chiếu ứng đại cơ (Bồ-tát).
Theo kinh Hoa Nghiêm,
đức Tỳ Lư Xá Na (pháp thân) với đức Lư Xá Na (báo thân) đồng một thể. Phật nhãn
thấy chánh báo y báo không hai. Thế giới chúng ta ở, tên là Huyền Hoa Tạng,
hình bông sen 1000 cánh.
Đức Lư Xá Na ngồi trên
đài hoa sen nói giới. Đài là nơi cao hiển. Tâm tánh chúng sanh là bông sen : a)
Không dính bùn. b) Nhân quả đồng thời. Thế giới nương tâm tánh chúng sanh mà
hiện cũng y theo tâm tánh chúng sanh mà trụ.
Kinh
A Di Đà nói :
Hoa sen vi diệu hương khiết. Dùng 2 đặc tính biểu thị giới thể tâm địa trước
sau tịnh sạch, không bị một ác pháp nào huân nhiễm.
Trên 1000 cánh có 1000
ứng thân. Mỗi cánh sen có trăm ức cõi. Mỗi cõi một Thích Ca (hóa thân).
Nói theo danh từ hiện
nay của nhân gian :
Một thái dương hệ là 1
tiểu thế giới.
1000 thái dương hệ là 1
tiểu thiên thế giới.
1000 tiểu thiên là 1
trung thiên thế giới.
1000 trung thiên là 1
đại thiên thế giới.
Mỗi cánh hoa trong kinh
là 1 đại thiên thế giới.
Nay 1 ức = 10.000.000
Một cánh sen 100 ức =
1.000.000.000
1000 cánh sen có =
1.000.000.000.000 Thích Ca.
CAM LỒ MÔN KHAI
Có phước gặp diệu dược,
tất cả bệnh tật sẽ tiêu trừ. Dù Phật tánh diệu giới là pháp chúng sanh sẵn đủ
nhưng hoặc-nghiệp từ vô thủy ngăn che như cửa đóng chặt, chúng sanh không hề
biết là mình có vô thượng pháp.
Ba đặc dụng : a) Nhiếp
luật nghi giới, linh đơn trị liệu tất cả ác bệnh khiến được bình an. b) Nhiếp
thiện pháp giới. Công đức pháp lành sung mãn sanh mạng. c) Nhiêu ích hữu tình
giới. Chúng sanh đang bị khổ não bức ngặt được thanh lương mát mẻ.
Giới pháp này không phải
lãnh thọ từ bên ngoài mà vốn sẵn có tại nội tâm. Ơn đức Lư Xá Na phát minh. Tâm
địa diệu giới nơi mỗi chúng sanh được khai hiển.
THÍCH CA TRUYỀN LẠI
Phước tuệ viên mãn sẽ
thành Phật quả là tánh chất trọng yếu của trì giới. Bậc tu hành giới đức trang
nghiêm. Lòng người khát ngưỡng như ngửa lên được thấy mặt trời rực rỡ khiến cả
khung cảnh trở thành quang sáng tưng bừng. Trì giới là nhân. Thành Phật là quả.
Lực dụng của giới pháp đã đưa vi trần Bồ-tát lên lầu vô thượng giác.
Đức Lư Xá Na đã tụng 10
trọng 48 giới khinh. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật cũng tụng như thế. Tân học Bồ-tát
tất nhiên phải cung kính thọ trì, ba nghiệp nghiêm cẩn đâu dám xao lãng.
Đức Bổn Sư ân cần dạy
nhắc : Chẳng những bản thân đỉnh đới phụng trì mà phải tận tình truyền bá khiến
cho giới pháp lưu thông suốt đời vị lai vô tận.
KHUYẾN TÍN
Lắng tâm nghe kỹ để mà
thâm nhập. 5 giới, 8 giới, 10 giới, 250 giới đều từ tâm địa diệu giới này lưu
xuất để thâu nhiếp chúng sanh trở về bổn nguyên. Tin chắc giới này là chánh
nhân thành Phật. Đúng pháp phụng trì, quyết định tương lai chứng quả Vô-thượng
Bồ-đề. Tin chắc nghĩa là thật hiểu. Biết có tỏ rõ, lòng tin có xác thật mới
niệm niệm hộ trì giới pháp, không dám mảy may hủy phạm.
Muốn củng cố tín tâm đại
chúng, đức Thích Ca sách tấn : “Chớ tự khinh là phàm phu, không dám ước mong
quả vị Phật. Ta là Phật đã thành vì đã trì giới. Bảo đảm các ông là Phật sẽ
thành nếu các ông vâng thọ giới pháp”.
Nếu chỉ hiểu biết qua
văn tự lời nói thì tuy có tin mà không chắc. Người tin chắc thì ý niệm lời nói
hành động đều xứng với Phật tánh, tức là đúng với giới điều. Như thế giới phẩm
hẳn trọn vẹn.
Quan hệ hoàn toàn ở sự
tin chắc. Cũng như thợ lọc vàng sở dĩ chịu khó ngày đêm vất vả chỉ vì biết chắc
chắn trong quặng có vàng. Nhưng cũng phải rõ phương pháp lọc vàng. Phương pháp
này là Bồ-tát giới.
Cung biểu thị oai nghi
nghiêm chỉnh bên ngoài. Kính là tâm ý kiền thành bên trong. Trong ngoài đồng
khẩn thiết chí tâm thâm nhập diệu giới.
KẾT GIỚI TƯỚNG
Nương thể tánh thanh
tịnh, đức Phật vạch đường đi thanh tịnh cho các Bồ-tát. Khác với Thanh-văn
giới, ban đầu không có. Về sau, căn cứ theo nhân duyên phạm tội của các
Tỳ-kheo, đức Phật mới tuần tự kết giới. Đây là tùy căn cơ, mỗi thời mỗi xứ khác
nhau. Giới Bồ-tát thì ba đời mười phương như vậy. Vừa mới thành đạo, Phật liền
chế định Bồ-tát đại giới, nêu cương lãnh của giới là Hiếu Thuận.
Không có cha mẹ, đâu có thân để hành đạo ; không có sư
trưởng, ai người dẫn bước ; không ngôi Tam-bảo, nương tựa vào đâu ? Bất hiếu
với cha mẹ, phản phúc thầy bạn, mất nghiệp hiếu thuận là không giới tướng, làm
sao toàn vẹn giới thể. Hiếu thuận cha mẹ sư tăng Tam-bảo ngăn tất cả ác thế
gian và xuất thế gian.
Có hiếu hạnh ắt chân
thật giữ gìn giới pháp. Đúng pháp giữ giới là thành thật thực hiện hiếu đạo.
Cho nên học giới, việc đầu tiên là hiếu thuận với cha mẹ sư tăng Tam-bảo. Hiếu
là nhân thù thắng của muôn công đức lành.
Thế gian cho xuất gia là đại bất hiếu. Đâu biết đức Thích Ca nhờ
xuất gia mới có phước lên trời Đao Lợi thỉnh đức Địa Tạng độ cho mẫu hậu. Có
xuất gia mới phát minh đạo lý Tứ Đế để đưa vua cha Tịnh Phạn và kế mẫu Kiều Đàm
Di lên đường xuất thế.
Vu Lan Bồn Sớ có câu :
Khể thủ tam giới chủ
Đại hiếu Thích Ca tôn
Lịch kiếp báo thâm ân
Tích nhân thành chánh
giác.
Hiếu là nhân thành Phật
thì bất hiếu hẳn đọa đường ác. Đức Bổn Sư thành đạo, việc đầu tiên là kết giới
cho các Bồ-tát tu học. Lời trước hết là “Hiếu danh vi giới”.
Bổn phận làm con phải
phụng dưỡng cha mẹ. Làm thế nào cho cha mẹ biết tin kính Tam-bảo, thọ trì Phật
pháp, tiến tới giải thoát sanh tử.
Trí tuệ Phật thấy rõ từ
vô thủy, trong vòng luân hồi, ta và chúng sanh đã từng làm cha mẹ lẫn nhau.
Kinh Phạm Võng nhấn mạnh : Tất cả nam tử là cha ta, tất cả nữ nhân là mẹ ta.
Tất cả bò bay máy cựa đều đã từng cùng chúng ta chia ngọt xẻ đắng trong những
kiếp bổng chìm ở đường sanh tử. Cho nên văn kinh bàng bạc những khuyến dụ hiếu
thuận, từ bi v.v…
Nhiếp luật nghi giới cấm
tất cả ác mới hoàn thành đại hiếu. Sách Nho nói : “Giở chân không được quên ơn
cha mẹ. Thốt lời chẳng dám bội nghĩa cù lao”. Thế nên lời ác không được ra khỏi
miệng. Một hành vi xấu không được hình thành nơi thân. Tránh những phê bình sỉ
nhục đến cha mẹ. Cho nên đối với tất cả chúng sanh không sát sanh, không trộm
cắp v.v…
Đức Khổng Tử nói : “Lập
thân nên danh giá đem vinh hiển cho cha mẹ”. Muốn thực hành bốn chữ quang tông
diệu tổ của người Trung Hoa chỉ có cách y theo nhiếp thiện pháp giới của
Bồ-tát, tận lực đem hết khả năng lợi ích nhân quần xã hội, một lòng hy sinh tư
lợi vì người.
Tự chính bản thân để thực hiện hai chữ hiếu thảo còn cần khổ miệng
hết lòng khiển trách răn đe những ai ăn ở ngỗ nghịch với cha mẹ. Lực dụng tối
đại của nhiếp chúng sanh giới chính là đưa tất cả vào Phật đạo.
Đã giải thích câu “hiếu danh vi giới”. Nay giải câu “diệc danh chế
chỉ”. Chế : quy định ra, minh định những pháp lành phải thực hiện. Chỉ
: ngăn tất cả ác.
Pháp chế : tác trì :
phóng sanh, bố thí v.v….
Cấm chỉ : chỉ trì : sát
sanh, trộm cắp v.v….
Bài kệ : “Đừng làm việc
ác, vâng làm điều lành. Tự tịnh tâm ý. Đây lời Phật dạy”. Giải thích rất đúng
hai chữ chế chỉ trong Bồ-tát giới.
Hiếu đạo nhà Phật siêu
vượt và rộng rãi hơn thế gian. Vì hướng về Vô-thượng Bồ-đề, khiến cho cha mẹ
lìa khổ hoàn toàn, hưởng vui vĩnh viễn, suốt đời vị lai.
SẮP TUYÊN GIỚI PHÁP
Vô lượng quang minh biểu hiện điềm lành từ miệng Phật phóng ra. Có
lời nói với các Bồ-tát : “Ngày bố tát vô cùng trọng yếu”. Để các Bồ-tát tự cảnh
giác, không đến nỗi phạm giới mà không tự biết.
Trong Luật Thiện Kiến,
đức Phật hỏi : Làm thế nào để chánh pháp cửu trụ ? Đức Phật tự đáp : Không hoại
pháp bố tát.
Chẳng những sơ phát tâm Bồ-tát mà tam hiền thập thánh, lòng tin đã
kiên cố, giới hạnh đã viên thành, đều phải tụng giới. Đây là quy luật quyết
định cho những ai đã thọ Bồ-tát giới.
Đức Phật có viên âm nên
gần xa thánh chúng đủ loài đều nghe hiểu. Tia sáng biểu tượng giới thể bình
đẳng thanh tịnh. Phật đã tự chứng nên miệng phóng quang. Phật tử thọ trì học
kỹ. Mai đây chứng được giới thể này thì cũng được như thế. Biếng nhác không
nghiêm cẩn nghe học là tự thiệt thòi.
Giới pháp này là của tất
cả chư Phật, không riêng một đức Thích Ca, mong chúng sanh siêu phàm nhập
thánh. Đương nhiên mỗi người phải y theo quy củ bố tát để tuệ mạng Như Lai
không đoạn tuyệt.
“Vì thế, giới quang từ
miệng ta phóng ra”. Giới có công năng diệt ác sanh thiện. Quang có lực dụng
chiếu sáng phá tối.
“Chẳng phải không nhân
duyên”. Nhân là chúng sanh cơ cảm. Duyên là Như Lai tuyên thuyết. Phàm phu
không liễu đạt giới quang sẵn có của mình. Một mặt hướng ngoại tìm cầu nên Phật
đặc biệt tổng phá :
“Không phải xanh vàng…”
: Không sa vào ảnh tượng biến kế chấp của phàm phu.
“Không phải lục nhập sắc
tâm…” : Không sa vào vọng tưởng, tình cảnh nhân thiên.
“Không phải hữu vô…” :
Không sa vào tà chấp đoạn thường của ngoại đạo.
“Cũng không phải nhân
quả…” : Sự tướng có tu có chứng của tiểu thừa. Đã siêu vượt tình trần, ly khai
kiến chấp, tức là chân nhân thành Phật. Đương nhiên sẽ chứng nhập pháp thân
diệu quả.
Tâm địa giới quang là
bổn nguyên chánh biến tri hải vô tận của chư Phật. Bồ-tát không có tâm địa giới
pháp này, không thể tu học lục độ vạn hạnh. Chúng sanh đã chịu sanh tử từ vô
thủy. Nếu sau này thành Phật, chính nhờ tâm địa giới pháp. Nên các Phật tử phải
thọ trì, đọc tụng và khéo học.
Khéo học nghĩa là gắng
sức thực hành. Không thọ trì không có nhân để thành Phật. Không đọc tụng không
thể tăng trưởng. Đọc tụng suông không thể chứng đắc diệu quả. Phải như pháp
hành trì mới được hưởng công dụng của giới pháp.
PHỔ NHIẾP QUẦN CƠ
Tỳ-kheo Tăng là thành
phần trụ trì Tam-bảo, là phước điền trong thế gian, là sư phạm của nhân thiên,
cần bậc pháp khí thanh tịnh nên thọ giới phải nhiều điều kiện. Bồ-tát giới chỉ
cần phát Bồ-đề tâm và hiểu lời nói của giới sư. Vì bổn nguyên tâm địa ai cũng
sẵn nên chúng sanh nào cũng được thọ.
IV. GIỚI TƯỚNG
10 giới trọng là bổn
nghiệp của Bồ-tát. Không như pháp, nửa tháng tụng một lần, khó mà bảo tồn bổn
nghiệp để lợi ích chúng sanh. Mất tư cách Bồ-tát, hẳn không có Phật quả tương
lai. Tụng giới là dùng nước pháp tưới chủng tử Phật, khiến luôn tươi nhuận,
không bị héo khô.
A- MƯỜI GIỚI TRỌNG
1/. GIỚI SÁT SANH
Lý duyên khởi tánh không
của Phật pháp dùng để đối trị bệnh chấp có của phàm phu. Người thông đạt lý
“tánh sát vốn không”, chẳng bao giờ sát sanh. Nếu sát sanh tội cực nặng.
Giới Thanh-văn đứng đầu
cấm dâm dục vì mục đích duy nhất của Thanh-văn là thoát ly sanh tử. Bồ-tát lấy
từ bi lợi tế chúng sanh làm cơ bản nên giới sát đứng đầu.
a) Chúng sanh là ân nhân
thành tựu đại hạnh cho Bồ-tát. Từng giờ phút phải lo báo ân, đâu có thể trở lại
giết hại.
b) Chúng sanh là cha mẹ
quá khứ.
c) Tất cả chúng sanh đều
có tánh Phật, đều là Phật vị lai. Có thể họ thành Phật trước mình, sẽ tế độ cho
mình (Trí Độ Luận).
d) Chúng sanh sợ nhất là
mất mạng nên không sát sanh là thí vô úy. Phóng sanh là kết thiện duyên thâm
hậu.
đ) Mình sợ chết sợ khổ,
không nên làm ai đau khổ sợ hãi.
e) Yếu vụ tối đại của
Bồ-tát là tiếp cận với chúng sanh, để dẫn dắt tất cả vào Phật pháp. Nếu trong
lòng Bồ-tát ôm niệm giết hại thì chúng sanh cảm sợ mà xa lìa.
f) Chúng sanh bị những
cực hình thống khổ như cắt cổ, nhổ lông, lột da, cạo vẩy, giẫy giụa trên thớt
dưới dao, chịu luộc nướng thiêu đốt v.v… Phương tiện cứu hộ là chỗ tu học tối
yếu của Bồ-tát.
2/. GIỚI ĂN TRỘM
Giới trên bảo vệ nội
sanh mạng. Giới này bảo vệ ngoại sanh mạng. Người ta bận rộn sớm chiều chỉ để
lo có cơm ăn áo mặc nên yêu quý tiền của vật dụng như mạng sống. Việt Nam ta có
câu “đồng tiền liền khúc ruột”. Đại thừa Phật giáo gánh trách nhiệm hóa độ
chúng sanh, bắt buộc Bồ-tát phải hết sức nghiêm cẩn, không một chút vi phạm
giới này, trong mọi hoàn cảnh, dưới mọi hình thức.
Kinh
Lăng Nghiêm :
Không diệt tâm trộm cắp không thể ra khỏi trần lao. Dù đa trí hiện tiền mà còn
trộm cắp quyết lạc tà đạo.
Trộm cướp đem khổ não
cho người, phạm nhiếp luật nghi giới. Không giúp người được phước được vui,
phạm nhiếp thiện pháp giới. Khiến chúng sanh chán xa Phật pháp, phạm nhiếp
chúng sanh giới.
Kinh Đại Tập : Một long nữ mù đỉnh lễ Phật bạch rằng : “Đời
trước con đã lén hái trộm của chùa 10 trái xoài để ăn. Xả thân đọa địa ngục.
Nay dư báo làm súc sanh đói khát mù lòa. Trong vẩy hằng bị mạt cắn núc máu. Nay
con quy y Phật, mong cầu thoát khổ”. Phật dạy : Vật bốn phương Tăng, thường trụ
Tăng hay hiện tiền Tăng, đều là của thí chủ thành kính cúng dường, mong cầu
phước báu. Hoa trái trong vườn chùa, cơm cháo thuốc thang giường nệm, tất cả
vật dụng của chúng Tăng, tự lén lấy xài dùng hoặc đem cho bạch y, tội đọa địa
ngục A tỳ.
Thà nuốt hòn sắt nóng
cháy đỏ, không nên tự lấy riêng thọ dụng những đồ ăn uống của chúng Tăng. Thà
dùng dao bén tự cắt lóc da thịt để ăn, xuất gia tại gia không được trộm lấy vật
dụng của chúng Tăng. Vị tri sự đem vật của chúng cho bạch y tương lai đồng với
kẻ kia sanh về chỗ khổ.
Phước Tăng Tỳ-kheo thấy
nơi đồng vắng một cây thịt bị vô số trùng bu cắn. Phật dạy : Cây ấy là một vị
sư thời quá khứ. Trùng bu cắn là những người tại gia đã được sư cho ăn dùng của
chúng Tăng.
Kinh
Quán Phật Tam Muội : Dùng tài vật của chúng Tăng, tội nặng hơn giết hại 84.000 cha mẹ.
Địa ngục vô gián chịu 5
khổ : quả báo không gián đoạn, thọ khổ không gián đoạn, thời gian không gián
đoạn, mạng sống không gián đoạn, thân hình không gián đoạn (kinh Địa Tạng nói :
Một người cũng mãn đầy. Nhiều người cũng mãn đầy).
3/. GIỚI DÂM DỤC
Những ai không muốn lặn
ngụp trong biển sanh tử, đoạn dục là công phu đứng đầu.
Trí
Độ Luận : Vì sức trói cột mạnh
nên tội ác lớn, ái dục vô hình mà xiềng trói chúng sanh trong lao ngục tam giới
chặt chẽ hơn gông cùm.
Như tất cả các giới, dâm
dục cần 4 điều kiện :
a) Nhân : Tập khí chủng tử
sẵn có từ vô thủy.
b) Duyên : Tiếp xúc 6
trần khả ái, tâm tư nối tiếp.
c) Pháp : Phương pháp để
giải quyết vấn đề.
d) Nghiệp : Việc làm
thành tựu.
Như tất cả các giới, dâm
dục đủ 3 chướng : a) Phiền não chướng : Tâm niệm ham muốn. b) Nghiệp chướng :
Thành tựu sự việc. c) Báo chướng : Chánh báo đọa ba đường ác. Nặng thì cột đồng
giường sắt trong địa ngục. Nhẹ thì chịu thân ma quỷ hay bàng sanh. Dư báo về
nhân gian, gia đình xào xáo, quyến thuộc bất hòa. Quả khổ luân hồi tiếp nối
không cùng tận.
Bồ-tát cứu độ chúng sanh
không những cho thọ phước báo an vui mà phải dạy xa lìa gốc chướng đạo, tát cạn
nguồn khổ đau. Đem pháp thanh tịnh khuyên dạy là chỉ cách quán bất tịnh, vô
thường, vô ngã, khổ và không, đưa dần vào trí tuệ Bát Nhã.
Bồ-tát lấy việc độ sanh
làm trách nhiệm. Đưa người ra khỏi biển ái sông mê mới thật là diệu dụng giáo
hóa. Đức Phật đại bi nói pháp môn ly dục tịch tĩnh Niết-bàn. Nếu vi phạm giới
này thuộc về tánh tội.
Nơi chúng sanh đã chết,
thân chưa rã nát, ở 3 đường (miệng, đại tiện, tiểu tiện) mà hành dâm cũng phạm
căn bản trọng tội.
Giới này đủ 3 tụ : a/.
Cấm cố tâm dâm dục thuộc về nhiếp luật nghi giới. b/. Đem pháp thanh tịnh
khuyên dạy người là nhiếp thiện pháp giới. c/. Cứu độ chúng sanh là nhiếp chúng
sanh giới.
Bồ-tát cần nghiêm cẩn
phụng hành.
4. VỌNG NGỮ
Phật có ở chùa. Cư sĩ
đến hỏi. Cậu bé La Hầu La nói Phật đi vắng. Như thế nhiều lần. Người ta bạch
lên Phật. Một hôm, rửa chân xong, Phật hỏi La Hầu La : Nước đã rửa chân có nấu
cơm được không ? – Thưa không vì đã nhơ bẩn. – Đúng thế. Người nói dối là người
nhơ xấu, không ai tin dùng.
La Hầu La đem chậu úp về
chỗ cũ. Phật đổ nước vào chậu úp. Nước trôi tuột đi. Phật hỏi làm sao nước
không đọng ở chậu ? – Vì chậu đã úp, làm sao nước đọng lại được.
– Cũng thế đấy, người
không hổ thẹn, thân miệng đã sống trái với giáo pháp thì thánh đạo làm sao thấm
vào tâm ?
Từ đó bé La Hầu La không
bao giờ còn dám nói dối.
Loài người chung sống
cần yếu phải tin nhau, chân thành là yếu tố để thành tựu lòng tin ấy. Chân
thành rất quý giá vì là suối nguồn đạo đức, là điều kiện tiên quyết của sự tu
hành. Cũng là cơ bản để cảm hóa lòng người.
Thân tâm không vọng ngữ
là nhiếp luật nghi giới. Thường sanh chánh ngữ chánh kiến là nhiếp thiện pháp
giới. Khiến chúng sanh chánh ngữ chánh kiến là nhiếp chúng sanh giới. Bồ-tát
vọng ngữ liền mất cả tam tụ tịnh giới.
Quán sổ tức, quán bất
tịnh là 2 cửa cam lồ vào thánh vị. Vọng nói đã chứng đắc cũng phạm đại vọng
ngữ. Khoe thiên long quỷ thần cúng dường, vĩnh ly tam đồ, hết sạch phiền não,
đều phạm đại vọng ngữ. Nếu người nghe không tin, người nói chỉ bị khinh cấu
tội. Người nghe lúc ấy chưa tin. Về sau nghĩ lại mới tin, người nói phạm trọng
tội. Người chính nghe không tin, người đứng ngoài lại tin. Người nói phạm 2
khinh cấu.
Người hỏi : Anh đã chứng
A-la-hán rồi phải không ? Gật đầu (trọng tội). Im lặng để người hiểu lầm (khinh
cấu tội).
Các tiểu vọng ngữ, khinh
cấu tội. Nhưng nếu thường xuyên phạm hoặc thích thú nói cũng mất giới thể mà
thành tội trọng.
Nói dối để cứu mạng
người thì không tội.
Bị vu khống, bị dối gạt
là dư báo của vọng ngữ.
Thành thật có 5 lợi ích
: mọi người tin kính, thuyết pháp được chúng sanh nhận lãnh phụng hành, chư
thiên quỷ thần ủng hộ, hơi miệng thơm, ít tật bệnh ở miệng. Sau này thành Phật.
5/. BÁN RƯỢU
Buôn bán rượu phạm tội
trọng. Uống rượu chỉ phạm tội khinh. Người xưa nói : Mở một tiệm rượu tội bằng
lập 10 dâm xá.
Tại gia xuất gia đều
nghiêm cấm. Bồ-tát phát nguyện khai mở trí tuệ, khuyên người hướng thiện, tiến
về con đường quang minh vô thượng Bồ-đề. Sanh khởi trí tuệ minh đạt là biện
biệt được phải quấy thiện ác chánh tà để tiến về chánh giác.
Nay đem hôn mê tán loạn,
ngu muội, đần độn, điên cuồng, hung bạo cho chúng sanh nên phạm căn bản trọng
tội.
Uống rượu tai hại nghiêm
trọng nhưng chỉ bản thân cá nhân chịu nạn nên kết tội khinh cấu. Bán rượu tổn
hại nhiều người nên chế thành giới trọng. Giới cấm bán rượu thuộc về giá
nghiệp, ngăn ngừa cội nguồn tất cả ác hạnh, họa hại vô tận cho thế gian. Người
tại gia bán rượu thuốc không phạm.
Vua Võ Đế nhà Hạ được
nước Trung Hoa suy tôn là đấng minh quân chỉ vì đã có khả năng bỏ rượu ngay khi
thấm thía hương vị ngọt say. Ngài liền sắc lệnh cấm cả nước không được pha chế
nấu rượu, để tránh sau này sẽ có kẻ vì rượu mà khuynh gia bại sản. Lịch sử khắp
thế giới suốt xưa nay đã chứng minh sự thật này.
Làm rượu, bán rượu, uống
rượu đều đọa địa ngục. Chuyển sanh lên dương thế làm kẻ điên khùng. Bồ-tát cần
suy ngẫm kỹ về tội ác thâm trọng và quả báo thống khổ của rượu để răn dạy chúng
sanh.
6/. RAO NÓI LỖI LẦM BỐN CHÚNG
Người phát tâm Bồ-đề, tu
Bồ-tát đạo rất hiếm có. Đã không tán thán còn bới lông tìm vết, khiến chánh
giáo Như Lai bị chướng lưu hành.
Phàm làm người trong thế
gian, dù là bậc đã có hàm dưỡng giáo dục học vấn đầy đủ cũng không tránh khỏi
ít nhiều lỗi lầm. Chưa phải thánh hiền, ai đã hoàn toàn không sai quấy ? Cho
nên Phật giáo chủ trương từ bi hỷ xả để cùng nhau xây dựng dần dần.
Bốn chúng tại gia xuất
gia cùng là thiện hữu núp bóng Tam-bảo. Đồng một giới pháp để phòng hộ thân
tâm. Pháp lữ một đường lối tu học để tăng tấn công đức, hoàn thành mục đích
xuất thế. Chúng ta cần đem hết năng lực hộ trì Tam-bảo, giữ gìn chánh pháp,
khiến giáo lý Phật đà cửu trụ nơi thế gian, lợi ích khắp muôn loài. Muốn được
như thế cần gây tín tâm cho nhân loại. Đức Phật đặt ra điều luật này, cấm tiệt
sự rao nói lỗi lầm của bốn chúng. Tránh những vạch áo cho người xem lưng. Để
đừng có cảnh trùng trong thân sư tử làm hại sư tử.
Lời nói là công cụ diễn
đạt tư tưởng và tình ý, khiến loài người hiểu nhau, hợp tác với nhau làm chúa
tể hoàn cầu. Nếu thuận hòa thì biển đông cũng tát cạn. Nay lại có những phát
ngôn viên truyền bá tin tức, chuyên môn bới bèo ra bọ, vạch lá tìm sâu, thêm ớt
thêm muối, chuyển việc nhỏ thành trọng đại. Rồi còn đi đến chỉ không ra có, chỉ
có thành không. Vui miệng vọt lời, thương tổn lòng tự ái. Như kim đâm vào tai
làm sao bảo tồn hảo cảm. Vết thương dao cắt dễ lành, lời nói đau, hận khó tiêu.
Thế là ngôi nhà Phật pháp nứt rạn. Tình bạn hữu biến thành thù địch.
Kẻ rao nói tội lỗi bốn
chúng là một nhân vật nguy hiểm. Kẻ nhiều miệng lưỡi, bất luận ở giai cấp nào
cũng đáng sợ. Chẳng những người bị rêu rao chịu hậu quả mà còn làm nhục danh dự
tông môn, khiến thánh đạo đang lưu hành bị mang vết. Luận Tát Bà Đa : Rao nói
tội lỗi người xuất gia tức là phá hoại pháp thân Phật. Vì hộ trì cửa đạo, vì ái
tiếc danh dự bốn chúng, đức Phật đặc biệt chế giới điều này để hàng Phật tử
xuất gia tại gia nghiêm cẩn giữ gìn.
Người xuất gia dù phá
giới vẫn còn hơn ngoại đạo. Các tân Tỳ-kheo bên Nhật Bản công khai có vợ con mà
hàng Phật tử tại gia cầu an cầu siêu cho đến cầu học Phật pháp vẫn nương cậy.
Trong khi ngoại đạo dù tài cao đức trọng vẫn không có chánh pháp độ đời. Kinh
Đại Bi nói : “Người xuất gia tay phải bồng con trai, tay trái dắt con gái, từ
quán rượu này qua quán rượu khác. Vì đã có sự huân đào trong Phật pháp, đã gieo
trồng thiện căn xuất thế thì không ngoài hiền kiếp này sẽ nhập Niết-bàn”. Dĩ
nhiên là không chùa nào chấp nhận cho Tỳ-kheo vào quán rượu. Ý kinh muốn nhắc
chúng ta rằng : Chỉ cần một chút cống hiến cho Phật pháp cũng là nhân duyên
giải thoát ngày mai.
Căn cứ vào đối tượng rao
nói mà thành tội nặng nhẹ. Đối các vị lãnh đạo quốc gia, tội thật nặng. Những
vị này hy vọng ở các tôn giáo góp sức cải hóa nhân dân. Nay nghe bản thân người
trong tôn giáo đạo đức chẳng kiện toàn. Vậy tôn giáo này vô ích. Trong lịch sử,
những sự phá diệt Phật pháp đa số đều do động niệm này.
Đối ngoại đạo và những
người ác cảm với Phật giáo mà rao nói lỗi lầm của bốn chúng, tội cũng không
nhẹ. Vì họ đang tìm tài liệu để bài báng Phật pháp. Nay được chính người trong
đạo Phật mạnh mẽ giúp sức, hỏi còn gì may mắn hơn ?
Đối Phật tử tại gia rao
nói. Thật tội nghiệp cho người này. Từ đây thoái thất lòng tin. Trong đồng đạo,
vui miệng kể lỗi người này, kể quấy người kia. Tội không nặng vì không định tâm
ác nhưng cũng không phải là tướng mạo thánh hiền. Động chạm đến danh dự đương
sự hẳn cũng tự chuốc lấy những thù hận khó gỡ.
Căn cứ vào động cơ thúc
đẩy bên trong và lời nói bên ngoài mà phán đoán tội nặng nhẹ : Nói người để
danh lợi về mình ; vì cừu hận dùng lời ác độc ; vì ngu si không biết hậu quả
của lời nói ; tâm vô ký, nhẹ dạ nhẹ miệng, bạ đâu nói đấy.
Bảo
người rao nói : a)
Vì ném đá giấu tay, nhờ miệng người làm tổn thất danh giá kẻ cừu địch của mình.
b) Biết hai người có oán hờn nhau. Giúp cho người này một mồi lửa để đốt nhà người
kia. Bồ-tát dĩ nhiên phải biết sợ những thứ tâm niệm này.
Xét 4 việc mà kết tội :
a- Nhân : 3 độc tham,
sân, si.
b- Duyên : Tìm lỗi lầm
của đối phương làm tài liệu.
c- Cách thức : Lời nói
hay viết văn.
d- Nghiệp : Mình nói
rành rẽ, người nghe minh bạch.
Rao nói tội trọng thành
tội trọng. Rao nói tội khinh thành tội khinh. Dù tội có thật, kẻ nói cũng ác
khẩu. Nếu trước mặt ngọt ngào sau lưng chê bai, phạm thêm tội hai lưỡi. Nếu tội
không có, chồng thêm tội vu khống.
Chúng sanh nạn nhân có 5
phẩm :
1- Thượng phẩm : Bồ-tát
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni. Người nói phạm trọng tội.
2- Trung phẩm : Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo-ni. Người nói cũng phạm trọng tội.
3- Hạ phẩm : Bồ-tát tại
gia. Người nói cũng phạm trọng tội nhưng không nhất định mất giới thể.
4- Nói tội chúng nhỏ, khinh
cấu.
5- Người bị rêu rao phạm
trọng tội đã mất giới thể, người nói khinh cấu tội. Nếu người này giới thể
không mất hoặc đã đúng pháp sám hối hay đã được thọ giới lại. Người nói phạm
trọng tội.
Quả
báo : Địa ngục rút lưỡi hoặc
bị kéo lưỡi ra cho trâu cày. Sanh về dương gian nhiều đời không lưỡi. Các thứ
bất hòa gây gổ.
Luật
Sadi dạy : Bệnh từ miệng vào, họa
từ miệng ra. Lưỡi con người là cái búa tự chém chặt mình.
Bồ-tát nghe rao nói tội
lỗi bốn chúng rất đau lòng buốt dạ. Huống chi tự miệng đi rao nói. Bổn phận
Bồ-tát phải giáo hóa kẻ ác sanh tín tâm lành đối với đại thừa. Kinh này gọi
ngoại đạo và nhị thừa là kẻ ác. Vì ngoại đạo không tự tin tâm mình là Phật, đem
tâm hướng bên ngoài cầu an vui hết khổ nên đa số bác lý nhân quả. Khác với
đường lối của Phật nên gọi là ngoại đạo.
Nhị thừa là đạo lý thánh
nhân vượt thoát luân hồi sanh tử. Sở dĩ kinh đây gọi là ác vì các hành giả
không phát tâm cứu độ chúng sanh, không tin diệu dụng đại thừa. Vì không tin
nên dễ sanh báng, cho rằng Bồ-tát phá hoại Phật pháp.
Để khỏi chướng ngại việc
hoằng dương Phật pháp và các Phật tử không tán thất tánh đức bản thân, đức
Thích Ca Mâu Ni cấm tiệt sự rao nói. Nhưng ngài vẫn nghiêm khắc bảo tồn nếp
sống thanh tịnh của Tăng đoàn. Không thanh tịnh, không có hòa hợp an vui. Mỗi nửa
tháng toàn chúng phải kiểm điểm, sám hối những lỗi lầm. Ai không tự thấy lỗi,
không chịu sửa lỗi sẽ bị trục xuất. Trong Tăng đoàn, trước giờ bố tát, Tỳ-kheo
nào cũng có quyền công khai cử tội những phi pháp sai luật. Cực lực quở trách
để xây dựng được coi là đại công đức.
Ngoài ra, nếu biết rõ
mười mươi sự không tốt đẹp, ta nên thành thật thẳng thắn nói chuyện ngay với
đương sự. Nếu không kết quả, ta đem thiện ý nói với sư phụ vị ấy, hy vọng sẽ có
sự cải hối, để hạt ngọc châu trở về không vết.
Chẳng những trong khi
tức giận phải cẩn thận mà hàng ngày thuận miệng hả dạ cũng nên đề phòng. Khinh
bạc đàm tiếu chuyện thị phi, khoái rao nói lỗi lầm của người khác, đâu có ngờ
đang tự tạo cho mình một vực thẳm.
Đức khiêm nhường cung
kính là một loại hoa thơm. Lời nói là bạc, im lặng là vàng.
7/. KHEN MÌNH CHÊ NGƯỜI
Tâm lý khen mình chê
người, phàm phu nào cũng có. Rất hiếm được nghe một người tự phô bày khuyết
điểm và tán dương mỹ đức kẻ khác. Cho nên hòa khí chân thành là một thứ vô cùng
quý giá. Bồ-tát từng giờ từng phút phản tỉnh, đề phòng những tập khí vô minh.
Con người ở trong xã hội
có đứng vững hay không chính do khả năng của mình. Khen chê chỉ là những ảnh
hưởng bên ngoài. Tật đố phỉ báng tác dụng ngược lại thường làm hại chính chủ
nhân nó.
Bồ-tát hóa độ chúng sanh
phải làm gương mẫu. Nhất cử nhất động, lời nói việc làm cần hợp pháp tắc. Ganh
ghét người hiền, hãm hại tài năng thì thiện pháp công đức mỗi ngày một tổn
giảm. Ác pháp tội lỗi mỗi ngày sẽ gia tăng. Bồ-tát dẫn dắt chúng sanh đi đường
lối này thật là nguy hiểm cho Phật pháp. Như người chuyên học giáo lý sẵn sàng
chê các bậc chuyên tu là tu mù luyện quáng. Bậc tĩnh tọa được chút công phu chê
người chuyên học là ăn bánh vẽ, đếm tiền hộ trưởng giả. Bổn phận duy trì Phật
pháp mà hóa thành bè đảng ma vương.
Những lời nói khiến kẻ kia không chỗ đứng, không thể ngóc đầu lên,
bị mọi người xa lánh. Sự nghiệp khó thành công vì chẳng được ai hưởng ứng. Nói
với người chưa thọ Bồ-tát giới thì căn bản trọng tội. Nói với người đã thọ
Bồ-tát giới thì khinh cấu tội. Cũng có nơi cho rằng bất luận nói với ai, hễ cứ
dụng tâm ác đều phạm trọng tội.
Khen mình là do tham
danh lợi. Chê người từ tật đố sân giận mà ra. Động cơ chính yếu vẫn là ngu si.
Chê người để hiển lộ cái hay của mình là dụng tâm đê hèn. Xúi người tự tán hủy
tha, bất luận hoàn cảnh nào, hễ người thọ sai hoàn thành sứ mạng thì Bồ-tát
phạm căn bản trọng tội.
Thanh-văn thừa coi tội
khen mình chỉ là ác thuyết. Chê người tội đọa, tức là hàng thứ 3 trong các tội
nặng. Bồ-tát thừa cho việc tùy vọng tình làm tổn thất chúng sanh, là tội rất
nặng.
Giới này gồm cả 2
nghiệp. Là tánh tội vì tranh danh đoạt lợi gây đau khổ sâu xa. Là giá giới vì
Phật đề phòng những tai hại có thể đưa người đến táng thân bại sản.
Hủy báng người thường,
tội đã nặng. Hủy báng pháp sư hoằng dương chánh giáo, tội càng trọng đại. Kinh
Báng Phật kể chuyện : Pháp sư Biện Tích, một cao Tăng hoằng truyền chánh giáo.
Thính chúng thông thường kể số ngàn muôn. Vì bị một bọn liên kết hủy báng, ngài
mất hẳn tín chúng, phải rời chùa đi cư trú nơi khác. Những kẻ hủy báng xả thân
chịu quả vô cùng bi thảm. Vô lượng kiếp trong địa ngục rút lưỡi. Chuyển thân
lên dương gian, thân này thân khác cứ bị sanh manh. Cho đến đức Phật Thích Ca
xuất thế, dù được xuất gia tu học mà thân tâm cứ đủ thứ tác dụng chướng nạn,
đến nỗi hết đời lại trở về địa ngục.
Kinh Vị Tằng Hữu kể một
chuyện khen mình : Có 5 Tỳ-kheo, hàng ngày luân phiên, 4 người ngồi thiền trong
rừng. Một người đi các nơi rao nói : “Có thánh Tăng giáng đức tại rừng kia. Ai
phát tâm lễ bái cúng dường công đức vô lượng”. Năm người nhờ vậy hưởng thọ sung
mãn. Mạng chung đọa địa ngục. Lên dương thế làm súc sanh trả nợ thí chủ. Đến
khi làm người bị dư báo. Nếu không làm nghề khiêng kiệu thì cũng đi đổ phân
thuê cho đàn na xưa. Xem thế thì biết, lợi dưỡng đúng pháp còn nên xa lánh
huống chi dùng thủ đoạn không chánh đáng mà tìm cầu.
Bồ-tát tuyệt đối phải có
4 pháp :
a) Biết gia đình
là lao ngục.
b) Biết danh lợi
là xiềng xích.
c) Không đắm nhiễm
các vui thế gian.
d) Không ái tiếc
thân mạng bốn đại.
Bồ-tát cần đề phòng 4
việc đọa lạc :
a. Khinh mạn người
kém mình.
b. Giả hiện hiền
đức.
c. Cư trú ở nơi có
nhiều danh lợi như cung vua thành thị.
d. Bội ân, dua
nịnh (đối với các bậc có ân đức phải trực tâm, thành tâm, cung kính tâm).
Đức Phật cấm khen mình
chê người là nói về phương diện phân biệt nhân ngã, tranh giành hơn thua, mưu
cầu danh lợi, bất chấp sự tổn hại của người. Còn các Bồ-tát đại từ bi vì thương
xót chúng sanh, vì đại nguyện nêu cao pháp tràng mà lớn tiếng phân biệt chánh
tà thì công đức không thể nghĩ bàn. Chẳng thể đem so sánh với ngã kiến phàm
phu. Vì mong cho chúng sanh thoát khổ trầm luân, Bồ-tát nêu lợi ích của Phật
pháp, vạch tỏ tà thuyết của ngoại đạo. Như đức Phật tự đặt ra giáo lý nhị thừa
rồi trở lại bài xích để đưa các đệ tử tiến lên nhất thừa.
HỎI : Bồ-tát giới bắt
buộc bao nhiêu hay tốt nhường cho người. Bao nhiêu nhơ xấu đem về phần mình.
Nếu bản thân Bồ-tát không xấu, nếu chúng sanh vốn thật không tốt thì lời nói
này trở thành hư dối ?
ĐÁP : Ta nên hiểu ý luật
dạy thế này : Bồ-tát phải có tầm tri kiến rộng rãi. Thí dụ chúng sanh đến hủy
nhục. Bồ-tát tự nghĩ : Vì có thân mới có cái đích để cho thiên hạ bêu xấu. Như
các hiền thánh chứng quả vô sanh thì đâu có duyên để cho thiên hạ ác khẩu. Lại
vì kiếp trước có tạo nghiệp hủy báng nên nay mới có quả báo xấu. Mỗi lời hủy
báng là một quét sạch túc nghiệp. Bồ-tát trở lại cám ơn chúng sanh.
Đức Khổng Tử dạy thầy Tử
Cống : Những gì mình không thích chớ đem cho người. Những gì mình ưa thích nên
làm cho người.
Phật cấm các Bồ-tát tuyên
dương lỗi xấu của người mà dạy hằng phô hiển chỗ tốt đẹp của người.
Du
Già Bồ-tát Giới Bổn : “Bồ-tát phải tận lực xưng dương tán thán người có thiện pháp
khiến những ai nghe được vui mừng, gia tăng tín tâm thanh tịnh”. Lửa tự tán hủy
tha thiêu đốt thiện căn đại thừa tánh giới, khiến Bồ-tát mất tâm từ bi. Chẳng
những khen mình chê người, Bồ-tát giới kết tội nặng mà Bồ-tát hạnh còn phải tùy
hỷ công đức thiện căn của mọi người.
Đức Phật dạy : Đã vào
rừng chiên đàn, phải lấy gỗ trầm hương. Không nên chỉ vơ một nắm lá. Phật tử
phải cầu cho bằng được sự an vui giải thoát. Nếu cầu danh lợi là tự thiêu đốt
hết thiện căn lại còn tạo nghiệp đọa lạc.
Bất cứ trường hợp nào,
tâm tật đố khen mình chê người cũng đáng trách. Hậu quả không lành cả hiện tại
và vị lai. Bồ-tát hàng ngày tự xét. Không để cho loại vi trùng nguy hiểm này
xâm nhập vào tâm. Huống chi còn dung túng cho nó làm thống soái điều khiển thân
miệng ý mình.
8/. BỎN SẺN THÊM MẮNG NHIẾC
Yêu tiếc cất chứa lợi
dưỡng, không muốn bố thí. Tham : ham muốn không chán. Xan : bỏn
sẻn bất luận về tiền của, năng lực hay trí thức.
Lòng người là như vậy.
Được thì hoan hỷ mà cho ra thì luyến tiếc. Phát tâm Bồ-đề là phát nguyện từ nay
xả thí nội thân ngoại tài. Đem vật thế gian hư huyễn đổi lấy thanh tịnh pháp
thân.
Bỏn
sẻn : tham. Mắng nhiếc : sân.
Nếu chỉ mắng nhiếc mà không bỏn sẻn hoặc chỉ bỏn sẻn mà không mắng nhiếc thì
tội khinh cấu. Mục đích bố thí chẳng những khiến chúng sanh an vui mà cần yếu
là được lợi ích. Nếu chúng sanh yêu sách những thứ vô lý hoặc quá khả năng thì
Bồ-tát cứ thành thật từ chối. Bỏn sẻn tiền của đời đời nghèo thiếu. Bỏn sẻn
Phật pháp đời đời ngu si nên Bồ-tát rất mong bố thí.
9/. SÂN GIẬN KHÔNG THỌ HỐI
Đối với Bồ-tát tội sân nặng hơn tham vì chướng ngại hạnh nhẫn nhục
và phá hoại đức từ bi. Bổn phận Bồ-tát phải chữa bệnh sân cho chúng sanh, đâu
lại tự mình giận họ. Bồ-tát phát nguyện vào địa ngục chịu khổ thay cho chúng
sanh, huống chi lại không chịu đựng nổi những mê lầm của họ. Không nhẫn được
tức là mình chưa tự điều phục được mình còn mong dạy ai ?
Chúng sanh gây chuyện
phi lý cho Bồ-tát :
1- Vì tiền ác nghiệp của
Bồ-tát cảm ra.
2- Vì ma phiền não ám
ảnh, chúng sanh ngu mê không tự biết. Ngũ trược ác thế toàn những bất như ý.
Như người lỡ vào rừng gai. Chỉ nên một lòng cầu ra thoát, đâu có thời giờ giận
trách bọn gai.
Bồ-tát một lòng xuất
thế. Vì đã giác tỉnh nên từ bi thương xót chúng sanh mê khổ trong kiếp sống vô
thường vô ngã. Bồ-tát tu lục độ lấy chúng sanh độc ác làm ân nhân. Ngày đêm chỉ
mong đền ân. Về Cực Lạc rồi, đâu còn ai cần đến Bồ-tát hạnh của mình.
Thân ta, thân người cho
đến dao gậy đều là đất nước gió lửa, tuần nghiệp cảm hiện. Các pháp sanh diệt
không ngừng. Trong đây không người mạ nhục, không người cung kính.
Ba cách tư duy để nhẫn
não :
1- Nghiệp lực chiêu cảm
tai ương.
2- Sanh mạng là hành
khổ, ta người đều vậy.
3- Còn chấp bốn tướng
ta, người, chúng sanh, thọ giả thì chưa phải là Bồ-tát. Bồ-tát có trí tuệ Bát
Nhã, dù thân bị lóc thịt, tâm vẫn không động. Bồ-tát đã biết đạo lý, đâu còn
như thế gian, làm chuyện xúc não.
Nhị thừa chỉ mong giải
thoát còn tu bốn vô lượng tâm Từ Bi Hỷ Xả. Nhà nho lập hạnh quân tử một đời,
còn biết dùng đức báo oán. Người phá vườn ta, ta đem nước tưới vườn cho người.
Huống chi Bồ-tát đại thừa, lấy lợi tha làm bổn nghiệp, lấy cứu khổ làm nhiệm vụ,
đâu có phiền hận ai ?
Người đem bất hạnh đến.
Bồ-tát nghĩ đây là nợ, ta nên vui vẻ trả. Thái độ thân thiết, sắc diện vui hòa,
tư cách thiện cảm, Bồ-tát bao giờ cũng cởi mở trong những quan hệ giao tiếp.
Kẻ sân giận bị gọi là
Dược-xoa La-sát, nào có ai ưa. Sân giận nổi lên, cả ba nghiệp trở thành xấu ác,
mở đường trầm luân. Bồ-tát thận trọng, triệt để vâng Phật, làm cho chúng sanh
được căn lành không tranh chấp, tu tập hiếu thuận từ bi.
Xúc người nổi sân rất
dễ, chỉ cần vài lời kích thích. Khuyên nhẫn nhịn rất khó vì lòng tự ái không dễ
hàng phục. Người đời cho khiêm nhường là hèn nhát nhu nhược.
Lúc đầu chỉ một tranh
cãi không đâu. Tiến đến ẩu đả. Rồi thì thịt nát máu rơi. Cho nên vô tranh là
căn bản an lành. Tạo được không khí hòa vui thì ngay thế gian là Tịnh-độ.
Bồ-tát biết tất cả chúng sanh đều đã từng là cha mẹ lẫn nhau nên tu tâm hiếu
thuận.
Thần Kim Cương mắt phẫn
nộ mà lòng Bồ-tát. Ngoài sừng sộ nhưng tâm hiền từ. Miệng quở trách vì lòng
thương xót. Bồ-tát thị hiện tướng sân để hàng phục cang cường chúng sanh, không
nên so sánh với những hạng người còn tẩm ba độc.
Trường hợp cần quở
trách, trị phạt, tẩn xuất mà Bồ-tát dung túng, để họ quá đà, đi đến đọa lạc thì
Bồ-tát phạm giới không dạy sám hối. Trừ những trường hợp thực sự không kết quả,
không phải lúc, thì Bồ-tát đành bỏ qua.
Câu
Xá Luận tụng rằng : Thượng nhị bất hành sân (cõi trời sắc và vô sắc không còn sân).
9/. HỦY BÁNG TAM-BẢO
Tà kiến thượng phẩm báng
không nhân quả, không tin Tam-bảo. Trung phẩm không thừa nhận Tam-bảo hơn ngoại
đạo. Hạ phẩm bỏ đại thừa theo tiểu thừa hoặc ngược lại chấp đại thừa báng tiểu
thừa, nói Bồ-tát không cần học tiểu thừa. Riêng chê bai một kinh nào cũng khinh
cấu tội.
Sợ hãi sanh tử, đoạn trừ
phiền não, Thanh-văn không sánh kịp Bồ-tát. Vì Thanh-văn chỉ tự độ. Bồ-tát
nguyện độ tất cả chúng sanh. Đặc điểm của Bồ-tát là một lòng xa lìa sanh tử tuy
vẫn ở trong sanh tử. Giải thoát phiền não mà vẫn lăn lộn đối đầu với chúng sanh
đầy phiền não.
Hủy báng Tam-bảo là
thiêu đốt hết thiện căn công đức của mình, phá hoại tín tâm chúng sanh, tiêu
diệt pháp nhãn của người. Đại ác tri thức này đưa mình và người vào địa ngục A
tỳ.
Riêng báng Phật, riêng
báng Pháp, riêng báng Tăng cũng là báng Tam-bảo. Nói trên đời này chỉ có Bồ-tát
tương tợ và Thanh-văn giả mà thôi. Đó là báng Tăng.
Quả báo đời sau không
gặp được Tam-bảo. Phá hoại tuệ mạng của chúng sanh, đoạn tuyệt Phật chủng của
chúng sanh nên đọa ác đạo, chịu các bệnh khổ. Hủy báng chánh pháp khiến chúng
sanh mất nơi nương tựa tức là mất tất cả quả vui, sẽ chịu tất cả khổ.
Thời quá khứ, pháp sư
Oai Nghi chuyên học tiểu thừa, báng đại thừa không phải lời Phật, chết đọa địa
ngục. Lên làm người đui mù, sanh nhà bần tiện tà kiến, không được gần Tam-bảo,
không được nghe chánh pháp.
Giới này đủ cả 2 tánh và
giá tội.
TỔNG
KẾT : Tâm địa đại giới mà hư
tổn thì dù Phật chủng sẵn có cũng không thể mọc mầm. Nên Bồ-tát cần nghiêm cẩn
dù một mảy nhỏ cũng không dám vi phạm.
B- 48 GIỚI KHINH
Khinh
: nhẹ. Cấu : nhiễm
ô bổn nguyên tâm địa. Nếu không mau sám hối thì chướng đạo quả. Khinh cấu tội
cũng gọi là ác tác, ác thuyết, thất ý, đột cát la. 10 giới trọng không đủ duyên
thành nghiệp gọi là khinh cấu tòng sanh.
Kinh
Ưu Bà Tắc Ngũ Giới Oai Nghi : Nếu thầy Samôn nói không thèm nghe, hỏi không như thật đáp, phạm
tội trọng cấu. Nếu không tâm khinh mạn giận ghét mà chỉ vì xao lãng biếng lười
thời khinh cấu tội.
1/. KHÔNG CUNG KÍNH THẦY BẠN
Tâm
hiếu thuận : ý
nghiệp kiền thành. Đứng dậy tiếp rước lạy chào : thân nghiệp kiền thành.
Hỏi thăm : khẩu nghiệp kiền thành. Bồ-tát từ trong tâm tưởng đến ngoài
thái độ đều phải y lời Phật dạy.
Tôn kính thầy bạn là
việc khẩn yếu trong Bồ-tát giới để hoàn mãn Bồ-tát hạnh. Trừ những trường hợp
như đang nghe pháp, không dám động niệm pháp sư và đại chúng thì không phạm.
Cung kính thầy bạn sẽ
thường xuyên được gặp duyên lành để thành tựu Phật pháp.
2/. UỐNG RƯỢU
Trưởng lão Sa Dà Đà hàng
phục độc long danh tiếng lừng lẫy. Bị rượu say, nằm bẹp một chỗ. Đức Phật hỏi :
Lúc này có bắt cua được không ?
Vua Hoàn Công nước Tề
đưa cho Quản Trọng một chén rượu. Quản Trọng nhận rồi lén đổ đi. Vua hạch tội.
Quản Trọng thưa : Uống rượu say nói những lời lỗi lầm sẽ mất mạng. Nên thà bỏ
rượu để giữ thân mạng.
Trừ trường hợp trọng
bệnh, cần rượu làm thuốc thì khai cho Bồ-tát được uống.
3/. ĂN THỊT
Một con chim bồ câu bị
diều hâu đuổi, chạy tới ngài Xá Lợi Phất vẫn run. Chạy đến bên Phật nó mới an.
Phật dạy vì tập khí sát nghiệp của ngài Xá Lợi Phất hãy còn.
Nhúng tay vào nước sôi,
toàn thân ta đau nhức như muốn nứt. Một cây kim đâm vào thịt, khắp thân ta rùng
mình. Cá kia phải mổ, ôm mối hận. Gà kia sắp chết, khóc dưới dao. Bao nhiêu đau
khổ chúng sanh phải chịu để cung cấp cho ta một miếng ăn. Trong khi chờ đợi
Diêm Vương xét xử, ta hãy suy nghĩ, đoái tâm để ý. Có nên gieo thêm thống khổ
cho những loài bạc phước ấy chăng ?
Tất cả chúng sanh không
sát nghiệp, thế giới nào có động đao binh. Hãy xét xem, chỉ một bát canh, oán
sâu tợ biển, hận như non. Muốn biết nguyên do kiếp đao binh, hãy nghe tiếng kêu
trong nhà đồ tể.
4/. ĂN NĂM MÓN RAU CAY
Tỏi, hành, hẹ, nén, hưng
cừ.
Kinh
Lăng Nghiêm dạy : “Ăn chín sanh dâm, ăn sống sanh sân”. Sanh dâm vì có tác dụng
vượng can hỏa. Ăn sống tăng trưởng sân hận vì làm động can khí. Người ăn bị 2
thứ dâm và sân che đậy tâm tánh nên ngũ tân cũng liệt vào loại khiến cho tâm
thần bị hôn mê.
Kinh
Tỳ Ni Mẫu :
Ngài Xá Lợi Phất bệnh nặng. Y sĩ bảo phải ăn tỏi. Tôn giả bạch Phật. Phật đáp :
Vì bệnh cho phép ăn nhưng phải riêng ở một nơi vắng vẻ. Không được vào phòng
Phật nhà Tăng. Không được sử dụng nhà tắm nhà vệ sinh công cộng. Không được nằm
trên đơn nệm chiếu của chúng. Lành bệnh rồi, 7 ngày sau khi không dùng tỏi nữa,
tắm gội giặt giũ, y áo sạch sẽ, thân không còn mùi tỏi mới được trở về trong
chúng.
Bộ
Tây Vức Ký :
Ở Ấn Độ, ai ăn ngũ tân liền bị đuổi ra khỏi thành.
Giới này cả tiểu thừa
đại thừa xuất gia tại gia đều thọ trì.
5/. KHÔNG DẠY SÁM HỐI
Chánh pháp cửu trụ là do
người phụng trì có đúng hay không. Người thanh tịnh làm gương cho đại chúng noi
theo. Nên thân tâm thanh tịnh vô cùng quan trọng. Chưa đạt ngôi thánh, chưa ai
tránh khỏi lỗi lầm. Vấn đề cần yếu là tự biết lỗi và hết lòng cải hối. Giáo bất
nghiêm thầy bị đọa. Bồ-tát thấy người giỡn cười phi pháp, không dạy sám hối, là
phạm giới.
Kinh
Ưu Bà Tắc Giới :
Thà một ngày đoạn vô lượng sanh mạng, quyết không dung dưỡng những đệ tử ác
mình không thể điều phục.
Kinh
Bồ Tát Thiện Giới : Làm thầy không răn dạy đệ tử để phá hoại Phật pháp, quyết đọa địa
ngục.
Kinh
Niết Bàn : Tỳ-kheo hiền thiện thấy
người phá hoại Phật pháp mà bỏ qua, không cử tội, không trị phạt, không tẩn
xuất. Tỳ-kheo này là giặc trong Phật pháp. Tuyệt đối không được thuận nhân
tình. Mặc người buông lung, không nhắc nhở, chính mình sẽ bị tội, ngôi Tam-bảo
không dung thứ.
Kinh
Thiện Sanh :
Thấy người phạm giới, khởi tâm khinh mạn, phạm tội thất ý. Cử tội phải chân
thật, phải thời, đúng lý, vì lợi ích cho người, với tâm từ bi, thái độ nhu hòa.
Không nên trước đại chúng mà ở trước một đại đức có thể chứng minh cho người
kia sám hối.
Du
Già Bồ Tát Giới : Cử tội cốt cho người cải hối và đại chúng được thanh tịnh an hòa.
Nếu đã không cải hối lại còn khiến chúng bất an thì không quở trách, không
phạm.
Luật
Ma Ha Tăng Kỳ :
Nếu có nạn đến tánh mạng hoặc phạm hạnh thì không nên tự rước lấy phiền phức.
Ai nấy hãy tự lo cứu lửa đang cháy đầu mình.
6/. KHÔNG CÚNG DƯỜNG THỈNH PHÁP
Vua Đế Thích hiện thân
La-sát, đến trước Bồ-tát đọc kệ : “Chư hành vô thường là pháp sanh diệt…”.
Bồ-tát khẩn thiết thỉnh La-sát nói tiếp. La-sát không nói được vì đói quá.
Bồ-tát năn nỉ : “Xin ngài cố gắng nói nốt. Tôi xin xả thân cúng dường”. La-sát
nói : “Sanh diệt diệt rồi tịch diệt mới an”. Bồ-tát vội viết bài kệ trên đá,
trên cây. Xong rồi tình nguyện nộp mình cho La-sát ăn thịt. La-sát liền hiện
nguyên hình là trời Đế Thích, đỉnh lễ sám hối và tán thán.
Dù giới hạnh khuyết điểm
mà có thể thuyết pháp độ sanh, truyền bá lời Phật. Ta phải cúng dường như cúng
Phật.
Tiền thân đức Thích Ca
Mâu Ni Phật làm đại quốc vương. Khoét trên thân 1000 lỗ đổ dầu đốt đèn cúng
dường bà-la-môn Lao Độ Sai, để nghe một bài kệ : “Lâu dài sẽ chấm dứt, quá cao
ắt đổ sụp, sum họp sẽ chia ly. Có sanh thì phải tử”.
Biết con đường Phật
Nhiên Đăng sắp đi qua có đoạn bùn nhơ, Bồ-tát liền cởi chiếc áo da nai, trải
lên mặt bùn. Vì chưa được khắp, Bồ-tát nằm bẹp xuống, mở búi xõa tóc trải lên
bùn, thỉnh Phật đi qua.
Kinh
Viên Giác :
Tu hành phải nguyện trọn đời cúng dường thiện tri thức.
7/. KHÔNG ĐI NGHE PHÁP
Tiểu thừa coi trọng
chánh kiến. Đại thừa coi trọng Bát Nhã. Vì người hướng dẫn không trí tuệ, vô
cùng nguy hiểm. Các thiện hạnh cần trí tuệ như thuyền cần mái chèo. Trăm ngàn
kẻ mù lạc đường chỉ cần một con mắt sáng là được sống.
Nhưng kinh Hoa Nghiêm kệ
rằng : “Ví như kẻ nghèo cùng, ngày đêm đếm báu cho người. Tự mình không nửa
tiền. Kẻ đa văn cũng vậy”. Đây ý khuyên học rồi cần tu. Đa văn là mới có văn
tuệ còn phải thêm tư tuệ và tu tuệ.
Giả sử thế giới toàn lửa
đỏ vì nghe Phật pháp cũng nên qua. Cầu thành Phật đạo độ chúng sanh vượt biển
lửa sanh tử.
Các học xứ có công năng
điều hòa ba nghiệp thân miệng ý, hàng phục tất cả bất thiện. Đa văn biết các
pháp, lìa mọi ác, xả vô nghĩa, được Niết-bàn.
8/. BỎ ĐẠI HƯỚNG TIỂU
Kinh
Hoa Nghiêm :
Thà đọa trong ác thú mà được nghe Phật danh, không muốn sanh thiện đạo mà chẳng
biết Phật pháp.
Kinh
Niết Bàn : Bồ-tát sợ đạo pháp nhị
thừa như người yêu tiếc thân mạng sợ phải xả bỏ thân. Bởi vì phát Bồ-đề tâm là
việc hiếm có khó được.
Đại
Trí Độ Luận,
Tổ Long Thọ cũng nhấn mạnh : Thà khởi tâm dã can (chồn) không sanh nhị thừa ý.
Giới kinh này cũng chê Thanh-văn pháp là tà. Đây là vì sợ hành giả
Bồ-tát thừa đi vào đường tịch diệt của tiểu thừa, trái bỏ chánh nhân tâm địa
diệu giới của mình, thành mất quả vị Phật. Chớ không phải khinh thường giới
pháp Thanh-văn. Cũng không phải nói Bồ-tát không cần giữ giới pháp Thanh-văn.
Thật ra đặc biệt Bồ-tát cần hết sức nghiêm cẩn giữ gìn thanh tịnh nhiếp luật
nghi giới của Thanh-văn để trang nghiêm thân tâm và giáo hóa nhân quần tu học
theo Phật pháp.
Kinh Địa Tạng Thập Luận : Bồ-tát cần phải tu học
tam thừa, không được kiêu mạn vọng xưng đại thừa mà hủy báng pháp Thanh-văn
Duyên-giác.
Đã xuất gia phải giữ giới Thanh-văn thanh tịnh, dù là người học
pháp đại thừa. Nếu không thì bị gọi là Tỳ-kheo tặc trụ (giặc trong Phật pháp).
Tội này rất nặng. Thanh-văn là trụ trì Tăng bảo trong thế gian. Giới hạnh thanh
tịnh của Tăng chúng quan hệ đến sự mất còn của tiền đồ Phật pháp. Làm sao dám
xem thường.
Không giới luật, Tăng
bảo đã mất thì Phật bảo và Pháp bảo cũng không thể tồn tại. Nhân thiên không
nơi nương tựa. Cho nên Bồ-tát phải trọng cả tam tụ giới.
Du
Già Bồ-tát Giới Bổn :
a) Bồ-tát chưa nghiên
cứu tinh tường Bồ-tát tạng mà chuyên học tập Thanh-văn tạng. Thế là trái
nghịch.
b) Bồ-tát chưa tinh
thông Phật giáo không được học tập ngoại đạo cùng những sách vở thế gian.
Kinh
Bồ Tát Thiện Giới : Nếu vì muốn phá tà kiến, hiển dương chánh pháp thì cho một ngày
hai thời học Phật pháp, một thời học ngoại điển. Nếu mê theo ngoại học liền
phạm giới.
9/. KHÔNG TRÔNG NOM NGƯỜI BỆNH
Bồ-tát lấy đại bi làm tự
thể, lấy cứu khổ làm bổn phận, thấy tật bệnh phải lo săn sóc cứu chữa. Công đức
khán bệnh vô cùng quan trọng, Bồ-tát chẳng thể lơ là. Phật dạy trong 8 phước
điền, bệnh nhân là đệ nhất. Phải cúng dường như cúng dường Phật.
Bệnh là do bốn đại không
an hòa nhưng cũng có nhiều nguyên nhân khác nên kinh Phạm Võng dạy phải giảng
Bồ-tát giới để cứu hộ các tai nạn và bệnh tật. Tôn giả Xá Lợi Phất nhiều bệnh
nhất trong hàng đệ tử. Phật dạy đó là do trong nhiều kiếp quá khứ ông thường có
tâm khinh mạn sư trưởng cha mẹ.
Triều nhà Đường bên Tàu,
Tứ Nham thiền sư ở thành Thạch Đầu (Nam Kinh bây giờ), lập một bệnh xá. Ngoài
giờ chăm sóc tắm rửa giặt giũ quét phòng bệnh nhân, ngài còn giảng pháp an ủi,
khuyên họ niệm Phật cầu sanh Tây phương. Gặp những người đau nhức rên la vì máu
mủ không lưu xuất được, ngài dùng miệng hút, lưỡi liếm. Đến niên hiệu Vĩnh Huy,
thiền sư viên tịch ngay tại bệnh xá. Thi hài để hơn 10 ngày mà dung mạo vẫn
tươi đẹp, không chút thay đổi. Hương thơm ngào ngạt tỏa ra khiến ai cũng tán
thán.
10/. CHỨA KHÍ CỤ SÁT SANH
Phòng ngừa manh nha khởi
niệm sát sanh. Kinh Niết Bàn : Thời mạt pháp, Ưu-bà-tắc tay cầm đao
trượng hộ trì Tam-bảo. Vị này không phạm giới mà công đức lớn. Quốc vương các
quan có trách nhiệm duy trì an ninh trong nước, bảo hộ sanh mạng và tài sản
nhân dân. Vì kiến thiết quốc phòng, phải cất chứa võ khí. Chỉ những hoàn cảnh
thật cần thiết như thế, Phật mới cho phép.
11/. QUỐC SỨ
Bồ-tát không được tới
lui qua lại trong quân trận huống chi còn làm môi giới chiến tranh. Danh lợi
như kiếm chém đầu người. Kẻ ngu ưa thích nên tự hoại hết pháp lành. Bồ-tát hễ
mưu tính việc bất chánh là tà mạng.
Bồ-tát xuất gia được
thỉnh đến quân đội thuyết pháp, an ủi thương phế binh hoặc cầu siêu cho các tử
nạn, thì được phép qua lại trong quân trận. Bồ-tát tại gia lợi dụng hoàn cảnh
làm chức vụ ngoại giao, thuyết phục giới lãnh đạo của hai nước, bãi bỏ binh
đao, chấm dứt chiến tranh, lập mối giao hảo, từ nay thực hiện chính sách hòa
bình. Vị quốc sứ này là sứ giả của Như Lai.
12/. BUÔN BÁN
Cả đại thừa tiểu thừa
đều có chế định không được buôn bán. Chúng ta chớ xem thường. Bồ-tát sợ buôn
bán như tránh hầm lửa huống chi còn buôn bán sanh mạng lục súc. Ở đây Phật chỉ
cấm những buôn bán phi pháp. Bồ-tát tại gia buôn bán lương thiện thì dĩ nhiên
không thành vấn đề.
Kinh
Di Giáo : “Buôn bán, trồng tỉa,
các thứ báu… phải tránh xa như hầm lửa”. Hầm lửa thì ai cũng biết là nguy hiểm
nên vội xa tránh. Còn của báu thì số đông ai cũng thích lăn vào.
Tát
Bà Đa Luận :
“Thà làm đồ tể, không nên sinh sống bằng nghề buôn bán”. Vì lòng tham dễ đi đến
đủ thứ xảo quyệt. Dối gạt và trộm cắp hàng ngày được trá hình.
Phật không cho buôn bán
vật đựng thây chết. Vì hễ mong được buôn may bán đắt tức là mong có nhiều người
chết. Tùy hỷ việc chết của người phạm khinh cấu tội trong giới sát sanh. Giới
tướng tỉ mỉ, các Phật tử cố gắng phụng hành. Đừng phụ lòng từ bi của đức Phật.
13/. BÁNG HỦY
Phật pháp lưu hành ở thế
gian để cứu khổ. Cần tôn nghiêm phong cách Tăng Ni mong xã hội kính phụng. Chớ
buông lung miệng lưỡi mà gánh chịu quả báo đáng sợ về sau.
Pháp Thanh-văn hủy báng
người có lỗi thật, tội nhẹ hơn vu khống. Pháp Bồ-tát trái lại. Vì pháp
Thanh-văn nhằm giữ gìn cho chính mình. Còn bản hoài của Bồ-tát là từ bi. Chỉ
thú của Bồ-tát là tránh tổn hại cho người. Nếu lỗi lầm có thật mà bị bới móc
rao nói thì người này không còn cơ hội ngóc đầu lên. Còn lỗi lầm không thật,
người bị nói hành không tự ti mặc cảm, dễ tiến tu thánh hạnh.
Chê bai hủy báng phát
xuất từ ba độc tham, sân, si. Rao nói cho tín đồ biết kẻ kia ngập đầy tội ác.
Như thế đồ chúng sẽ ly khai người ấy mà đến với mình. Mình sẽ thâu tóm toàn bộ
danh và lợi. Ngay những bậc ở địa vi cao tột đỉnh mà vẫn tự thấy cần cực lực
hủy báng các đối thủ.
Ngôi Tam-bảo được vững
chắc ở thế gian. Trong nhờ có Tăng Ni đầy đủ giới đức giáo hóa dẫn dắt. Ngoài
nhờ có quốc vương đại thần hộ trì. Nay hủy báng các ngài thì ngôi Tam-bảo làm
sao sáng tỏ. Liệt vị Tăng Ni sẽ bị thế gian coi như ác ma.
Điều tối trọng yếu của
giới này là báng hủy minh sư thiện hữu. Phật dạy : Có hẳn một địa ngục chùy
phát để dành cho bọn đại tặc này. Tội nhân một thân tự mọc ra 4 đầu. Vô số độc
trùng bu cắn miệng lưỡi. Toàn thân như đống lửa cháy mãi không ngừng. Hết báo
địa ngục lên dương gian làm bàng sanh ăn phân uống nước tiểu. Mãn báo súc sanh,
tái phục thân người, sanh nơi biên địa hoang dã, không gặp Phật pháp. Trọn đời ngu
si, chịu sự khinh rẻ. Cứ thế mà đi mãi con đường đọa lạc với những thống khổ vô
biên. Đức Phật ân cần khuyên dạy : “Hủy báng Phật tội còn nhẹ. Hủy báng pháp sư
tội thật nặng. Cho nên Bồ-tát đạo khẩn yếu là hiếu hạnh đối với sư trưởng”.
Trong kinh Thần Biến,
Phật dạy Bồ-tát Văn Thù : “Ác tâm hủy phá hằng hà sa tháp miếu Phật, tội còn
nhẹ. Sân tâm hủy báng pháp sư, tội nặng gấp bội vô lượng a tăng kỳ”.
Luận
Bồ Tát Học :
Khinh miệt mạ nhục Bồ-tát, đọa địa ngục thọ khổ không hẹn ngày ra.
Một bé gái mới 7 tuổi
bảo với mẹ : Mẹ ơi, ông thầy kia giống con quạ mù ! Đức Phật dạy :
“Sau này bé phải chịu 500 đời làm quạ mù”. Bà mẹ cầu Phật tha thứ. Đây là vì
nhỏ dại bạ đâu nói đấy chớ không hề có ác tâm. Phật đáp : Nếu ác tâm thì đọa
địa ngục. Như Lai nói như thế vì mắt Phật thấy rõ quả báo của ác khẩu.
Hủy báng thuộc về tánh
tội. Không luận có thọ giới hay không, cứ hủy báng là tự chiêu cảm ác báo.
Kinh
Báo Ân : Lửa dữ chỉ đốt một xác
thân, ác khẩu thiêu đốt vô lượng đời. Lửa thiêu tài vật, ác khẩu thiêu đốt bảy
thánh tài.
Vĩnh
Gia đại sư huấn từ : Mặc cho người hủy báng, tha hồ cho họ chê bai. Cầm lửa đốt trời
chỉ tự chuốc mệt nhọc. Ta nên coi như được uống cam lồ để cho tiêu nghiệp.
14/. PHÓNG HỎA
Tỳ-kheo không được cố
tâm giẫm đạp cỏ tươi. Huống chi Bồ-tát lại dùng lửa thiêu đốt cả núi rừng đồng
nội. Vừa sát sanh, vừa hoại quỷ thần thôn, vừa thương tổn tài vật kẻ khác.
Sát sanh còn có chọn
lựa, sanh mạng bị giết có hạn lượng chớ phóng hỏa thì làm sao tính lường.
Kinh nói từ tháng 4 đến
tháng 9 là mùa mưa, sâu kiến trùng dế sanh sản rất nhiều. Những xứ lạnh, mùa
đông, côn trùng nhỏ chui sâu vào lòng đất ngủ yên, đợi đến mùa ấm mới trồi lên
mặt đất sinh hoạt. Những quốc gia thuộc vùng nhiệt đới phải dè dặt thận trọng
quanh năm vì các sinh vật không có đông miên.
Pháp
sư Diễn Bồi kể chuyện : Một tiều phu thấy một khu rừng có đốm lửa liền vội vàng dập tắt để
tránh hỏa hoạn. Cảm phước báo lên trời làm Đại Phạm Thiên Vương. Cứu hỏa công
đức như vậy thì phóng hỏa đương nhiên tội không thể nhẹ. Bồ-tát cẩn thận !
15/. KHÔNG HOẰNG DƯƠNG ĐẠI THỪA
Chánh
tín đại thừa : Ác
nào cũng dứt được. Lành nào cũng làm được. Loài nào cũng độ được. Chư Phật là
Phật đã thành. Mình là Phật sẽ thành. Vì tâm mình đồng tâm Phật nên trên cầu
Phật quả. Vì tâm mình đồng thể với mười phương chúng sanh nên nguyện độ tận
chúng sanh. Sự giác tỉnh này không được giây phút xao lãng. Hễ quên liền lạc về
nhị thừa. Nhân tu gọi là tâm Bồ-đề. Quả đức gọi là chánh giác. Từ sơ Địa đến
Địa 10 đều lấy đại bi làm gốc.
Trước tiên dạy hàng tân
học đọc tụng kinh luật đại thừa. Kế giảng cho hiểu rõ nghĩa lý, giúp cho họ
phát tâm Vô-thượng Bồ-đề.
Nếu chỉ hiểu rõ giáo lý
đại thừa mà không phát tâm đại Bồ-đề là cuồng tuệ. Nếu chỉ phát tâm Bồ-đề mà
không thông đạt giáo lý đại thừa, chỉ thêm vô minh. Nên hai việc này trợ giúp
cho nhau.
Kinh
Vô Úy Thượng Thọ Vấn : “Phát tâm Bồ-đề phước lớn như hư không. Dùng châu báu đầy hằng sa
cõi Phật đem cúng dường Tam-bảo, được phước vô biên. Người chí thành một phen
phát tâm Bồ-đề, phước đức hơn nhiều không thể tính kể”. Phát tâm rồi phải tu
tập hạnh Bồ-đề là các pháp quán để viên mãn 10 Tín, tiến lên 10 Trụ, 10 Hồi
Hướng. Bồ-tát dạy người tu 30 ngôi Hiền mới gọi là tự lợi lợi tha. Bậc thầy
phải cặn kẽ chỉ thứ lớp lên quả vị Phật để người học khỏi lạc đường (xem kinh
Hoa Nghiêm).
Giới kinh dạy : “Bồ-tát
phải thuyết giảng đúng chánh pháp. Phật tử phải tận tâm học kinh luật oai nghi
đại thừa, thông hiểu nghĩa lý. Hàng tân Bồ-tát từ xa trăm ngàn dặm đến cầu học
nên dạy các khổ hạnh. Rồi sau tuần tự theo căn cơ mỗi người mà giảng chánh pháp
cho họ mở thông tâm ý. Phật tử vì danh lợi, đáng dạy mà không dạy. Hoặc giảng
kinh luật một cách điên đảo, văn tự lộn xộn, không đúng thứ lớp trước sau.
Thuyết pháp với tánh cách hủy báng Tam-bảo, khinh cấu tội”.
16/. VÌ LỢI ĐẢO THUYẾT
Bồ-tát phải học tập đầy
đủ để thành tựu tri kiến. Khi đã có khả năng phải tận tình giáo hóa để cho ai
nấy đều được hưởng thọ sự lợi ích của chánh pháp. Việc truyền đăng không thể
đoạn tuyệt. Vì hộ trì chánh pháp, Bồ-tát hoan hỷ sốt sắng khoái lạc giảng nói,
không mỏi nhọc, không chán nản. Cầu cho chúng sanh tiến tới Vô-thượng Bồ-đề.
Đã thọ Bồ-tát giới, ai
cũng phải học kinh luật đại thừa, thông hiểu nghĩa lý. Sơ tâm phải biết tôn
trọng chánh pháp đến mức hy sinh thân mạng. Có ý chí quyết liệt như Tổ Huệ Khả
cầu pháp với Tổ Đạt Ma mới dũng cảm thắng tiến. Không bị hoàn cảnh khó khăn làm
thoái thất tâm Bồ-đề.
Xả thân, cánh tay, ngón
tay để cúng dường Phật là tâm thượng cầu Phật đạo đến tuyệt đỉnh. Xả thân mạng
tay chân bố thí cho cọp sói các loài quỷ đói rồi giảng nói đại thừa cho hàng
tân học ấy mở thông tâm ý. Đây là nói về tâm hạ hóa chúng sanh đến mức tuyệt
đỉnh.
Nên biết chúng ta từ vô
thủy chìm đắm trong sanh tử luân hồi. Nguyên nhân là do đời đời kiếp kiếp đã
huân tập vô minh, chấp thủ thân mạng. Nay dạy hy sinh để thực hiện tinh thần vị
tha của đại thừa (Ma-ha tát-đỏa Vương Tử đem thân nuôi 5 mẹ con nhà cọp). Tại
sao lại khuyên Bồ-tát nên làm như thế ngay buổi vỡ lòng học Phật ? Mục đích chủ
yếu là phá trừ chấp ngã. Thân mạng còn coi như giẻ rách huống chi tài vật. Nội
thí ngoại thí hiển tỏ một tâm chí vững chắc kiên cố.
Tuyên thuyết chánh pháp
không phải dễ dàng. Trước nói những sự tướng dễ hiểu rồi sau dần dần giảng nói
thâm áo. Chúng sanh tiếp thọ từ thô vào tế, từ cạn đến sâu, dễ nắm được đường
lối. Ba môn vô lậu học cũng trước học giới, sau vào định rồi tuệ giải. Ngôi vị
tu tiến cũng tuần tự từ 10 Tín lên dần 10 Địa. Người học nhờ văn tuệ mở tỏ, tư
tuệ khai sáng mới không bị trệ ngại trong khi tu tập liễu ngộ bổn nguyên tâm
địa. Ý hiểu rõ, biết được nghĩa vị xác thật. Tâm trí đã khai thông thì sự chứng
quả đăng vị sẽ không khó khăn.
Tóm lại, quên mình vì người là bổn hoài của đại sĩ. Tuyên dương
thuận theo chánh giáo là bổn phận của Bồ-tát. Theo kinh Phạm Võng, trước tiên
vì hàng sơ học nói khổ hạnh, trì giới. Kế nói chánh pháp nghĩa là lý KHÔNG.
Phải làm sao cho tâm chí người học kiên cố vững bền.
Khi nào thì không phạm ? Biết người kia tà kiến nên pháp sư không
dạy khổ hạnh mà cực lực bài xích khổ hạnh. Hoặc để phá trừ ngu si vọng chấp nên
vị thầy chuyên giảng LÝ mà chưa nói đến SỰ.
Theo Du Già Giới Bổn, có nhiều nhân duyên Bồ-tát từ chối giảng dạy
thuyết pháp mà không phạm giới. Thí dụ : Người cầu không thật lòng, Bồ-tát đang
bệnh v.v…
17/. Ỷ THẾ KHẤT CẦU
Kinh
Ngũ Bách Vấn : Một
Tỳ-kheo tham tiền của, khất cầu quá nhiều mà không đúng pháp sử dụng. Mệnh
chung thọ ác báo làm một trái núi toàn thịt rộng vài mươi dặm. Gặp năm mất mùa,
dân chúng xúm nhau đến cắt thịt, mang về cả nhà ăn. Thịt lại mọc ra như cũ.
Thiên hạ tha hồ ăn.
Phật dạy : Ai đã thọ
Bồ-tát giới, làm việc gì cũng vì đại chúng hay vì Phật pháp. Nếu vì hộ trì Phật
pháp, muốn Phật pháp được truyền bá khắp thế gian mà thân cận các quốc vương
thì nào có lỗi như Nam Dương Trung làm quốc sư luôn 3 triều vua nhà Đường,
Trừng Quán Thanh Lương làm thầy cho 7 vị quốc vương. Quan hệ là phải có khả
năng đừng mắc bả lợi danh.
18/. KHÔNG BIẾT MÀ LÀM THẦY
Thầy thuốc không rõ căn
bệnh cùng phương thuốc mà đi trị bệnh thì làm sao bệnh nhân bình an ? Người mù
lãnh trách nhiệm dẫn đường hẳn đưa nhau xuống hố. Bồ-tát tự không tuệ giải,
không thông đạt tánh tướng các pháp, không rành rẽ văn nghĩa kinh luật mà làm
thầy thì lấy gì dạy đệ tử ? Đã không biết đến chánh nhân tâm địa, làm sao thành
Phật cực quả ?
Điều tối trọng của
Bồ-tát là thành thật, không giả dối. Thế gian có cái họa lớn là ai cũng thích
làm thầy. Có người nương danh từ hóa độ chúng sanh, kiến lập môn đình cao rộng,
tướng ngã mạn lẫy lừng. Có người tự cho mình là thông tông giáo, xem rẻ luật
học, lạm thâu đồ chúng thật đông. Thọ giới mà không học không tụng, không biết
khai giá trì phạm thì chẳng những hiện đời mất tên Bồ-tát, mai sau không quả vị
mà còn tự chuốc tội báo vào thân.
Thích làm thầy là công
đức hay tội lỗi ? Là hộ trì hay hủy diệt Phật pháp ? Điều này chỉ ở trí tuệ,
đạo đức và tài năng của đương sự.
Trí
Độ Luận : Tỳ-kheo phải thông tam
tạng, đủ 10 hạ mới được làm thầy. Theo Phạm Võng kinh thì phải trì Bồ-tát giới
ngày đêm sáu thời. Hiểu rõ ý nghĩa lý tánh của giới. Trí tuệ thông đạt kinh
luận dĩ nhiên là cơ bản để truyền pháp lợi sanh. Thân tâm thanh tịnh, giới hạnh
lại càng là cơ bản của đại sĩ nhập thế. Không thể biếng nhác tụng trì giới
luật.
Chỗ chỉ quy của sự trì
giới là giải thoát và thành Phật. Cho nên cần phải hiểu rõ lý tánh của giới.
Kinh Thành Thật : “Hết thảy các pháp môn tu chỉ cốt tỏ ngộ vạn pháp vô sanh,
thật tướng như như tịch tĩnh. Trụ tâm chân thật này không thoái. Hễ vọng khởi
liền biết, không theo vọng. Tâm muôn đức liền đủ, diệu dụng không cùng. Được
tâm này rồi, chuyển pháp luân. Ta người đồng lợi”. Tâm tánh này làm sở y cho vô
tác giới thể. Đồng thời nương vô tác giới thể làm chủng tử thành Phật. Giới thể
gồm 2 loại :
1. Tác giới : Tại giới
đàn, ba nghiệp thân miệng ý đúng pháp đúng luật tạo nên. Nghiệp này có thể thấy
và nghe. Khi động tác của thân miệng diệt rồi, nó cũng diệt theo.
2. Vô tác giới : Nương
duyên tác giới mà phát sanh. Một khi đã phát sanh thì tương tục còn mãi. Trọn
đời ngăn ngừa sai quấy lỗi lầm, diệt các tội ác, giữ gìn ba nghiệp thanh tịnh.
Nhiều bậc thầy như Tổ
Huệ Năng không thông hiểu văn tự nhưng chân thật giải ngộ. Xưa kia Hòa-thượng
Giải Thoát được nghe một bài kệ, liền tỏ ngộ chân lý như đã liễu đạt ba tạng
kinh Phật :
Pháp tịch diệt thậm thâm
Của mười phương chư Phật
Phương tiện trí làm đèn
Chiếu thấy tâm cảnh
giới.
– Ngài Châu Lợi Bàn Đặc
Ca được Phật dạy có một bài kệ mà chứng A-la-hán :
Thấy được lỗi lầm nên
hoan hỷ.
Trên đời không sân, thật
hạnh phúc !
Đừng làm tổn hại các
chúng sanh
Sáu trần thế gian đừng
ham muốn.
Thoát ly ái dục và ngã
mạn
Mới có thể nếm được an
vui.
Vào cảnh tịch diệt là
vui nhất.
Đã không hiểu biết kinh
luật, lẽ ra phải đi học. Nay lại dám đứng làm thầy. Nếu không phải thánh nhân
đã tỏ ngộ chân lý như các Tổ nói trên thì điều trọng yếu trong các điều trọng
yếu, pháp sư phải thông hiểu kinh luật, giới hạnh trang nghiêm.
19/. LƯỠI ĐÔI CHIỀU
Đối với các bậc đức hạnh
sanh tâm khinh báng. Đối với các Bồ-tát đáng lý phải cực lực nghĩ tán hạnh
nguyện, tuyên dương công đức để mười phương chúng sanh hướng về học tập Phật
pháp. Giới hủy báng số 13 đã răn cấm việc hãm hại khiến cho người mất danh giá.
Giới này ngăn sự ly gián sanh nghi kỵ đấu tranh. Trong các bạn đồng học phải
tạo một không khí phấn khởi hy vọng. Nếu thấy phát sanh những ý kiến trái nhau,
cần vận dụng hết sức khéo léo của mình để khôi phục hòa khí.
Cần lựa chọn lời nói.
Thiếu thận trọng sẽ mất hòa vui.
Lời
phụ của pháp sư Diễn Bồi : Số thiện lai Tỳ-kheo có đến mấy chục ngàn mà thiện lai Tỳ-kheo-ni
không đầy 10 vị. Ni giới tự biết nghiệp chướng nặng nề nên vâng theo lời đức
Bổn Sư Thích Ca, quán bất tịnh :
1) Tử thi cứng đơ.
2) Sình chướng.
3) Xanh bầm.
4) Nứt loét hôi thối.
5) Máu mủ rỉ chảy.
6) Nát bấy.
7) Dòi bọ lúc nhúc.
8) Thịt da tiêu tan.
9) Xương long rụng mủn
thành bột.
10) Thiêu đốt chỉ có
ngọn khói bốc trên lửa. Khoảnh khắc chỉ còn một nắm tro tàn.
Nhất tâm niệm danh hiệu
Phật A Di Đà, ngồi thuyền đại nguyện vãng sanh Tịnh-độ, ung dung lên ngôi bất
thoái, mãn Bồ-đề nguyện như ai.
20/. KHÔNG PHÓNG SANH
Thấy khổ nạn, Bồ-tát
phải cứu tế.
a)
Phóng sanh.
b)
Cứu trợ các vong linh.
Tại Trung Hoa, huyện Vu
Châu, thôn Căn Khê, bà họ Lý tuổi ngoài 60, sống cô độc với đứa cháu 7 tuổi.
Hai bà cháu đang mải mê hái trà. Một mãnh hổ từ trong rừng nhảy ra vồ đứa cháu.
Bà già hoảng hốt, quên sợ hãi, chắp tay van xin tha mạng cho cháu. Cọp bất ngờ,
đứng dừng lại một chút, thả đứa bé, nhảy tót vào rừng. Bà già hoàn hồn dắt cháu
về nhà.
Cũng tại xứ ấy. Một chủ
quán rượu thịt, ngày nọ, đem tất cả tôm cá lươn rùa v.v…, mua để làm thức ăn
cho khách, ra sông phóng sanh. Từ đó tiệm ăn đóng cửa. Người ta tò mò hỏi duyên
cớ. Chủ quán đáp :
Tôi có một người làm
công, mỗi ngày lén cắp những con vật sống, đem thả ra sông. Một hôm tôi bắt
được. Thấy cậu ta vui mừng sung sướng nhìn con vật bơi đi, tôi giận tức đến cực
độ. Sẵn nồi nước sôi để làm gà, tôi xối xả tất cả lên lưng cậu ta. Cậu ta ngã
nhào xuống đất, da phỏng lòi thịt, trông như heo luộc. Tôi mặc kệ cho kêu la.
Thật là đáng kiếp ! Tôm cá của tôi mua làm sao đem đi thả ?
Tôi đi vào nhà. Quay lại
thì lạ kìa, vô số các loài thủy tộc từ sông bò lên, leo khắp lưng cậu. Chúng
nằm trên lưng cậu ta như thuốc thoa phết. Cậu làm công tỉnh dậy, cảm thấy mát
mẻ tận xương tủy. Khỏe khoắn tươi tỉnh, không bao lâu khỏi hẳn. Chứng kiến cảnh
ấy, tôi giật mình : Cứu hộ sanh mạng được báo ân thì giết hại làm sao tránh
khỏi báo thù ? Vì thế tôi quyết định đổi nghề.
Phóng sanh công đức vĩ
đại. Để tâm lành này được kiên cố, Phật dạy chánh quán :
1/- Đời đời ta thọ sanh
trong sáu nẻo luân hồi. Không có một hữu tình nào chưa từng là cha mẹ ta.
Ở thành Xá Vệ, một đại
phú trưởng giả đang cùng vợ con ăn cơm, thấy đức Phật tay cầm bình bát đứng lù
lù trước cửa, mắng rằng : “Samôn không biết hổ thẹn”.
Đức Phật liền dùng thần
thông giúp ông biết việc kiếp trước : Mẹ ông vì luyến ái chưa dứt nên trở về
làm vợ ông hiện tại. Bố ông cũng vì tình nghĩa chưa hết nên sanh trong nhà ông
làm thân gà, bị ông giết thịt trong bữa cơm hôm nay. Con ông chính là quỉ
La-sát đầu thai để báo oán.
Trưởng giả tỉnh ngộ cuộc
đời là một bi hài kịch, vội sụp lạy quy y. Nghe pháp xong, trưởng giả liền
chứng sơ quả Tu-đà-hoàn. Đáng thương cho chúng ta, tầm nhìn quá ngắn. Chỉ biết
vọng nhận bốn đại là thân hiện tại. Quân tử lắm cũng chỉ hiếu thuận với cha mẹ
hiện đời. Ngoài ra khinh mạn lăng nhục, giết chóc. Đâu biết tất cả chúng sanh
đều là những người đã từng yêu thương đùm bọc chúng ta.
2/- Tất cả chúng sanh
chính là thân cũ của ta. Lúc chết bốn đại ly tán, ta gọi là vật bên ngoài.
Người chết đem chôn, thân trở thành đất. Trên đất mọc lên cây lúa. Người ăn gạo
nhận làm nội thân. Cứ thế xoay vần. Thánh nhân biết thân chúng sanh là thân
mình.
3/- Học đại thừa Bồ-tát
giới, hiểu chân lý “tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”. Nên tất cả chúng sanh
hiện nay, đủ thắng duyên, sẽ là vị lai Phật.
4/- Từ bi quán :
a. Sanh duyên từ : Quan
sát những khổ nạn mà phát tâm cứu vớt.
b. Pháp duyên từ : Thông
đạt ngã không, pháp không, ta người đồng thể nên mở lòng cứu độ.
c. Vô duyên từ : Tâm
Phật không duyên một pháp nào mà nhậm vận vẫn ban vui cứu khổ.
Đại Trí Độ Luận quyển 20
giải thích 3 loại từ bi tâm rất rõ ràng. Kinh Pháp Cú nói lợi ích của tâm từ bi
: 1) Phước đức thường theo bên mình. 2) Thức ngủ bình an. 3) Trời
người ủng hộ. 4) Không bị nạn nước lửa đao binh thú độc. 5) Hiện
tại nhiều may mắn. 6) Lai sanh cõi lành.
Nếu đem công đức hồi
hướng Tây phương thì sớm thành bậc đại phước đại trí. Hiện thân đi vô lượng thế
giới cứu độ chúng sanh.
Kinh này dạy chúng ta :
1-
Thường phóng sanh.
2-
Khuyên người phóng sanh.
3-
Thấy sát sanh phải cứu
hộ.
4-
Đem giới Bồ-tát giảng
dạy :
a) Giáo hóa cho thế gian
biết sợ khổ sanh tử, cầu Niết-bàn an vui.
b) Hiểu chân lý chư Phật
cùng chúng sanh đồng thể, diệt hết tham sân si, giải thoát luân hồi, trở lại
bổn nguyên tâm địa.
c) Cầu cha mẹ anh em
hiện đời bình an, lâm chung vãng sanh cõi Phật.
d) Thỉnh pháp sư giảng
Bồ-tát giới để cầu siêu tiến cho vong nhân. Việc này ít ai làm nhưng lời Phật
dạy rõ ràng ở giới này. Nếu Bồ-tát không vâng hành thì phạm giới.
Kinh luật có công năng
sanh thiện diệt ác nên tiêu tội được phước. Giảng kinh tư trợ cho người chết
nghiệp chướng tiêu trừ, trí tuệ khai mở. Nếu đọa lạc u đồ thì nhờ công đức
giảng kinh, vong giả sanh về nhân thiên. Nếu có thiện nguyện thì được vãng sanh
Tịnh-độ.
Một phen được nghe
Bồ-tát giới kinh, vĩnh viễn thành Phật chủng. Nên biết giới pháp công đức rất
lớn.
Không cứu sống sanh
mạng, không cầu siêu độ cho những thần thức đang bị trầm luân, Bồ-tát phạm
khinh cấu tội.
Nghiêm trì giới này là
đủ tam tụ tịnh giới.
a- Nhiếp luật nghi giới
không tàn nhẫn sát sanh.
b- Nhiếp thiện pháp giới
phương tiện cứu hộ các thứ khổ nạn cõi âm cõi dương.
c- Nhiếp chúng sanh giới
phóng sanh, cầu an, cầu siêu.
Đem Bồ-tát giới giảng
dạy là cứu nhân khổ. Phóng sanh là cứu quả khổ. Bồ-tát cứu độ chúng sanh là cứu
cho rốt ráo hết khổ. Thỉnh các pháp sư giảng kinh luật đại thừa là cứu sanh độ
tử, đưa tất cả về cảnh giới thánh hiền vĩnh viễn an vui.
21/. KHÔNG BÁO THÙ
Phật pháp từ bi phổ độ,
cố gắng thực hiện oán thân bình đẳng. Vì thế triệt để ngăn cấm chủ trương báo
oán của thế gian. Đức Phật dạy đại chúng bên trong sung mãn nhẫn hạnh, đối
ngoại từ bi hỷ xả. Trường hợp nào cũng biểu lộ tâm niệm ái hộ chúng sanh.
Sân giận là thứ phiền
não rất nặng. Bao nhiêu rối ren đều do thiếu nhẫn nhục phát sanh. Tự lợi lợi
tha, tất cả công đức thiện pháp đều phải đề phòng sự thiêu đốt của lửa sân.
Bồ-tát từ nhẫn, bi mẫn, cốt yếu là không trả thù. Giới luật không bắt người mới
học phải dùng đức báo oán. Việc này khó lắm. Đức Phật biết rằng thái quá là sự
khó tuân hành.
Kinh
Đại Bát Nhã quyển 21 : Ngay trong lúc đấu tranh, Bồ-tát tự giác. Tại sao ta lại dùng lời
ác đáp lại người ? Không nên phá hoại quả Bồ-đề thậm thâm.
Đại
Bát Nhã quyển 520 : Bồ-tát dù bị chặt tay chân cũng không sân giận, nói lời thô ác.
Vì Bồ-tát cầu Vô-thượng Bồ-đề, mục đích duy nhất là để cứu khổ ban vui cho tất
cả chúng sanh.
Lời khai thị lâm ly thấm
thía tận tủy não này, tân học Bồ-tát chúng ta phải xem trọng ! Chúng sanh não
loạn đến cách nào, nếu ta không sân hận thì họ chẳng làm gì được. Ví như mặt
xấu xí soi vào gương sáng thì mặt vẫn xấu xí mà gương vẫn sáng ! Nếu bạn nổi
giận, nói lời tệ ác, thì kết quả lỗi lầm, đáng lẽ kẻ kia phải mang, lại thành
của bạn.
Vĩnh
Gia đại sư Chứng Đạo Ca rằng : Quán ác ngôn là công đức. Kẻ kia là thiện tri thức. Nếu vì chê
báng khởi tâm oán thân, lấy gì nêu biểu vô sanh từ nhẫn lực ?
Người thân bị giết nay
trả thù cũng không sống lại được. Chỉ gia tăng mối hận thù. Vua Trường Thọ bị
vua Phạm Ma giết. Trước khi chết dặn con rằng : “Quyết định không nên trả thù.
Đem oán báo oán, thù không chấm dứt. Chỉ có cách không báo thù thì oán hận mới
tiêu tan”. Tuy thế con là Trường Sanh vẫn nuôi chí nguyện phục thù. Cải trang
làm kẻ hát rong, được giới thiệu lọt vào cung vua Phạm Ma. Rồi được tin cẩn.
Một hôm cùng vua vào rừng săn bắn. Nhằm thời tiết nóng bức. Trường Sanh đánh xe
vua đến chỗ vắng nghỉ ngơi. Vua ngủ say. Trường Sanh 2 lần rút gươm định giết
vua nhưng nghĩ đến lời cha dạy lại thôi. Đến lần thứ 3, Trường Sanh đánh thức
vua dậy, kể hết sự tình. Vua cảm động, khen Trường Thọ là thánh nhân, cảm ơn
Trường Sanh đã tha mạng, trả lại nước cho Trường Sanh.
Đức Phật kết luận rằng :
Vua quan chuyên nghiệp kiếm cung mà còn hành ân huệ, khen nhẫn nhục. Cướp nước
giết cha mà còn tha thứ hòa giải được. Huống chi Tỳ-kheo làm sao lại dùng lời
nói làm binh khí đả kích nhau ! Bồ-tát tư duy người sân pháp sân đều không thật
có, chứng Bát Nhã chân không.
22/. KIÊU MẠN KHÔNG THỈNH PHÁP
Không kính trọng bậc có
đạo chẳng những bản thân tổn đức mà còn mắc tội khinh mạn. Bồ-tát tận lực cầu
học chánh pháp để tự hành và hóa tha.
Kinh
Hoa Nghiêm :
“Bồ-tát nghe nói phải nhảy vào hầm lửa mới được học Phật pháp cũng mừng rỡ nhận
lời. Vì học hành Phật đạo sẽ thoát khổ A tỳ địa ngục. Lửa thế gian có thấm vào
đâu”. Bồ-tát cần học để biết đường thành Phật và các phương tiện độ sanh. Tự
cao tự đại cho rằng mình đã hiểu biết thậm thâm, không chịu cầu học thêm, là
một tổn hại nặng nề.
Kinh
Vị Tằng Hữu :
Một con dã can bị sư tử đuổi. Trượt chân rơi xuống giếng. Ba ngày không sao tìm
cách lên được. Hướng lên hư không bạch rằng : “Xin mười phương Phật chứng minh.
Con vì ngu si cố tiếc thân hèn, không bố thí cho sư tử. Đến nỗi nay chết làm
thối bẩn giếng người. Con xin cầu ai sám hối. Nguyện mười phương Phật soi sáng
cho con sạch hết tội nghiệp quá khứ. Nguyện đời sau được gặp minh sư học chánh
pháp cho đến chứng quả Vô-thượng Bồ-đề”.
Thiên đế nghe pháp ngữ
này, vội cùng tám vạn ông trời bay xuống bên giếng : “Chúng tôi ở cõi trời bấy
lâu tối tăm. Nay xin pháp sư từ bi chỉ giáo về Phật pháp”. Dã can đáp : “ Quý
vị ở trên cao, tôi đứng dưới thấp. Thuyết pháp không đúng nghi tắc, kẻ nói
người nghe đều cùng có lỗi”. Trời Đế Thích vội vàng dùng thần thông đưa dã can
lên khỏi giếng. Mỗi ông trời cởi một áo, chồng lên thành một pháp tòa. Thỉnh
pháp sư giảng thuyết. Vua và chúng trời đỉnh lễ dưới chân cầu nghe.
23/. KHINH NGẠO KHÔNG NÓI GIỚI
Giới trên là mạn, thuộc
về 6 căn bản phiền não (tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến). Giới này là kiêu,
đứng trong tiểu tùy phiền não (phạm vi hạn hẹp).
Kinh dạy : Pháp thủy
không thể trụ ở núi kiêu mạn. Giới trên là không kính bậc thầy. Giới này là
khinh hàng sơ học.
Kinh
Anh Lạc : Giáo hóa một người thọ
Bồ-tát giới, công đức hơn kiến tạo tháp Phật khắp tam thiên đại thiên thế giới.
Kinh
Hoa Nghiêm :
Vì giáo hóa một chúng sanh, Bồ-tát phải ở địa ngục A tỳ, vô lượng kiếp chịu lửa
thiêu, Bồ-tát vẫn vui mừng như đang ở cảnh an lạc tối thắng.
Không truyền dạy, Bồ-tát
phạm : a) Nhiếp luật nghi giới vì tự tăng trưởng ác tâm cho chính mình. b)
Nhiếp thiện pháp giới vì trái thiện hạnh đại sĩ. c) Nhiếp chúng sanh giới vì
mất một chúng sanh mà mình có nhiệm vụ giáo hóa.
Khi phát tâm cầu Bồ-tát
giới, phải phát đại hoằng thệ : đoạn tất cả ác, tu tất cả thiện, độ tất cả
chúng sanh. Mong muốn thiết tha là nguyện. Thệ là quyết định thực hành.
Đức Phật vẫn thường trụ
ở khắp mười phương nên được cung kính đối trước tượng Phật mà thệ nguyện thọ
giới. Trước phải chí thành sám hối nghiệp chướng. Vì tội báo sâu nặng nên không
được gặp thầy truyền trao giới pháp. Sám hối nhiều ngày, kỳ hẹn là thấy được
hảo tướng (hoa báu, quang minh v.v…).
Luật sư Chân Biểu ở
Trung Hoa cầu đức Di Lặc truyền giới. Trên tảng đá lớn ở đỉnh núi cao, ngày đêm
dõng mãnh thiết tha sám hối. Một tuần sau, thấy đức Địa Tạng hiện thân khích
lệ. Luật sư tiếp tục lễ sám. Đêm thứ 14, bị một ác quỷ xô nhào xuống gộp núi,
đồng thời các thứ ma tướng quái dị dọa nhát. Luật sư càng thiết tha sám hối.
Đến ngày thứ 21, đức Di Lặc cùng thiên chúng quang lâm xuống thạch đàn, truyền
trao giới pháp, ban danh là Chân Biểu.
Chúng ta nay ở thời mạt
pháp, ma Phật khó phân thì cứ sám hối cầu được gặp thầy truyền giới, khỏi cần
hảo tướng. Tự nguyện thọ giới khó đắc giới như cọ cây cầu lửa. Từ thầy thọ giới
dễ đắc giới như mồi đèn lấy lửa. Chỉ cần gặp được đèn sẵn có lửa, lập tức được
ánh sáng. Cho nên giới tử phải tôn trọng cung kính khẩn thiết học đạo, một khi
đã gặp được thầy.
24/. KHÔNG HỌC KINH LUẬT ĐẠI THỪA
Xa lìa đại thừa, Bồ-tát
mất căn bản. Luật Sadi nói : Bỏ trân bảo lấy ngói gạch là không biết chánh tà.
Kính Di Hầu làm vua Đế Thích là không có trí tuệ xét người. Mang danh Bồ-tát vì
đã thọ đại giới và thực hành đại thừa. Nếu rời đại thừa làm sao chứng Vô-thượng
Bồ-đề.
Bồ-tát phải đủ ngũ minh
nhưng không được bỏ gốc là Phật pháp. Nhãn quang sáng suốt đối với vấn đề nào
cũng không trệ ngại, không khư khư chấp chặt nhưng sơ tâm Bồ-tát phải triệt để
tuân hành giới này.
Hàng tân học trước tiên
phải thâm tín cung kính hâm mộ Phật pháp. Y kinh luật tu hành, khế nhập thật
lý. Văn huân tu tập phát khởi chánh kiến. Đại thừa lục độ vạn hạnh lấy chánh
kiến làm cơ bản chủ yếu chỉ đạo.
Do công hạnh chứng lý
tánh (chánh tánh : Như Lai Tạng).
Dẹp sạch vô minh đến
đâu, lý tánh hiển lộ tới đó cũng gọi là Như Lai xuất triền. Bồ-đề quả mãn liền
chứng pháp thân.
Nay có Phật để quy y. Có
pháp để tu học. Có Tăng để làm gương mẫu mà đành héo mầm Bồ-đề, hư giống chánh
pháp nên kinh gọi là đoạn Phật tánh (làm mất giống Phật). Phật tánh sẵn đủ
trong tâm. Vì thiếu nhân duyên tăng trưởng nên bị lu mờ.
Hoặc học nhị thừa ngoại
đạo, thoái tâm đại thừa rẽ đi đường khác nên gọi là đoạn Phật tánh. Kinh Pháp
Hoa cũng nói : Hành giả đại thừa không nên ở chung với hành giả tiểu thừa.
Bồ-tát phải học tiểu
thừa, ngoại đạo, ngũ minh để đủ phương tiện giáo hóa chúng sanh. Giới này đặc
biệt cấm hàng tân học cùng những người kém trí tuệ để ngăn ngừa sự lạc đường.
Kinh
Bồ-tát Thiện Giới : Vì phân biệt chân vọng để phá tà kiến, vì cần biết sự thế để độ
thế gian v.v…. Bồ-tát được học ngoại điển nhưng đại thừa tiểu thừa đều phải lấy
bổn pháp làm chỗ chính học.
25/. KHÔNG KHÉO HÒA CHÚNG
Thống lý đại chúng cần
nhất thiết vô ngại mà nay đã không khéo điều hòa lại còn khuấy khích kình
chống. Biết nhường nhịn sẽ giải quyết nhiều khó khăn. Bậc lãnh đạo đối với
người thì từ bi hỷ xả, hòa giải xích mích. Với tài vật của Tam-bảo thì yêu tiếc
giữ gìn cần kiệm. Nếu toàn ban chức sự được như thế thì ngôi Tam-bảo hẳn hưng
long. Cõi Ta Bà chúng sanh nổi tiếng cang cường, Bồ-tát không khéo điều phục, dễ
phát sanh ác nghiệp.
Các vị đạo thủ quan hệ
là pháp sư, luật sư, trụ trì, giảng sư, thiền sư, tri khách phải ngọt đắng
chung thọ, khổ vui có nhau. Không nên có một nếp sống cách biệt. Sáu chức vụ,
mỗi người làm chủ phần hành của mình, quan hệ nhất là bảo vệ hòa ấm. Không kịp
thời hòa giải những bất đồng ý kiến, tất nhiên khó chung sống nói chi cùng làm.
Mỗi khi có việc xào xáo, người lãnh đạo không thể thiếu cẩn trọng.
Tăng đoàn có sự tranh
cãi. Đôi bên đều cần thiện chí nhường nhịn. Vị thượng tòa đứng ra dàn xếp cần :
1) Giới hạnh thanh tịnh, đa văn, biết luật. 2) Thông minh trong hỏi đáp, lời
nói rõ ràng. 3) Có khả năng sáng suốt dứt khoát sự việc. 4) Không thiên vị,
không nể sợ. 5) Điềm đạm, một lòng từ bi hòa giải.
Trong các tùng lâm Trung
Hoa, cửa vào mỗi kho đều có đôi liễn :
Yêu tiếc của thường trụ
Như giữ tròng con mắt.
Thà hy sinh thân mạng cá
nhân chớ không lãng phí của Tam-bảo. Bậc thủ lãnh phân phối tài vật hợp lý cần
dùng, thông bạch chúng Tăng các việc. Không nên tự ý tùy tiện bừa bãi. Dùng lộn
lạo của Tam-bảo đọa địa ngục Hỏa Già (gông lửa). Ví dụ thí chủ cúng dường trai
phạn lại đem xây cất Tăng xá. Chia phần chúng Tăng mà thiên vị, người có người
không, người hậu người bạc, phạm khinh cấu tội.
26/. RIÊNG THỌ LỢI DƯỠNG
Làm chủ chùa có bổn phận
rộng rãi đối với khách tăng bốn phương. Pháp vị đồng hưởng mà lợi hòa cũng đồng
quân. Tỳ-kheo còn phải đủ lễ tiếp đãi huống chi Bồ-tát lấy lợi tha làm yếu vụ.
Phải làm sao cho khách tăng, sau khi đi đường mệt nhọc, có thể an tâm hành đạo
một khi đã vào chùa. Nam Hải Ký Quy, Nghĩa Tịnh pháp sư ghi : Các tự viện Ấn Độ
có quy luật. Mỗi khi có khách Tỳ-kheo tới, Tăng chúng tại trụ xứ phải tức khắc
đến trước mặt tỏ lời hoan nghênh : Thiện lai ! Khách cũng phải đáp : Cực thiện
lai ! Nếu không xướng họa như vậy là trái luật nhà chùa. Ấn Độ ngày xưa rất
trọng điều này. Các tùng lâm Trung Hoa cũng chế định : Khách Tăng đến xin trú
ngụ, nhất định không được cự tuyệt. Phải tận tâm chu đáo các nhu dụng, thức ăn
chỗ ở v.v…
Phật dạy : “Lợi dưỡng
trong chùa là phổ đồng cho mười phương Tăng”. Không vâng lời Phật tức là bế tắc
nhân tình mà đàn việt tổn phước. Kinh Phật Tạng : “Tướng bạch hào của Như Lai
dư phước đức để cung cấp cho tất cả đệ tử xuất gia thọ dụng”. Vậy chúng Tăng lo
gì thiếu thốn. Nên biết thêm người là thêm phước. Chớ lo đông chúng thiếu ăn.
Tâm lượng càng rộng rãi, sự sinh sống càng dồi dào. Kinh văn đúc kết vấn đề là
phải sự sự cung cấp để khách Tăng cảm thấy được như ý trong khi ở trọ.
Đối với bản thân phải
cần kiệm. Đối với khách Tăng không được bạc đãi, phải một lòng chí thành. Đức
Phật chế giới với những lời ân cần quá mức như trong văn kinh. Hẳn chúng ta là
đệ tử chẳng thể coi thường mà biếng nhác lơ là.
Thí chủ đến thỉnh, dù
thỉnh cả đại chúng hay chỉ hạn định một số. Lợi dưỡng này thông cả mười phương
thánh phàm. Đương nhiên khách Tăng có phần. Vị chủ sự phải bình đẳng.
Kinh
Phạm Võng Sơ Tâm : Nếu khách Tăng không phần, chúng cựu trụ thọ dụng ăn uống, cứ mỗi
miếng một tội. Nếu nhận tài vật thí chủ cúng dường mà không chia phần cho khách
Tăng, cứ tính giá tiền theo luật mà quy tội. Vì thế người quản chúng trái lời
Phật, tội không nhỏ.
Chủ chùa mà chỉ biết ăn,
sống không hợp với nhân tình (súc sanh). Không đúng pháp hòa kính lễ nghi của
Tăng (không đáng là Samôn). Trái lời Phật dạy (không phải Thích tử). Trái với
luật (khinh cấu tội).
Trường hợp thí chủ đặc
biệt thỉnh riêng cựu trụ Tăng hoặc ngỏ ý không hoan hỷ thấy vị khách Tăng ấy,
thì không phạm.
Kinh
Tăng Hội : Thời Ca Diếp, đàn việt
cúng dường chúng tăng một món ăn. Chủ chùa cất giấu, đợi khách Tăng đi rồi mới
chia cho đại chúng. Không dè thực phẩm hư hỏng đành bỏ đi. Do nhân duyên này,
mạng chung vị chủ chùa đọa địa ngục phân uế. Tới nay đức Thích Ca Mâu Ni Phật
xuất thế vẫn chưa hết quả báo khổ.
27/. THỌ BIỆT THỈNH
Điều tối yếu trong Tăng
đoàn là hòa hợp như nước với sữa. Đức Phật đã nêu 6 pháp hòa. Trong đây lợi hòa
đồng quân có phần quan trọng của nó. Đức Phật tuyệt đối cấm thọ biệt thỉnh,
không muốn thí chủ có tâm thiên ái, riêng cúng một người, không nghĩ đến mười
phương Tăng. Cúng dường không phổ biến, phước đức rất hạn hẹp. Tăng thọ biệt
thỉnh, phá hoại phép tắc thứ tự thọ thỉnh của Như Lai, tự rước lấy tội xâm đoạt
đồ cúng dường mười phương Tăng.
Kinh
Tỳ-kheo Ứng Cúng Pháp Hạnh : Nếu đệ tử ta thọ biệt thỉnh, nhất định mất thánh quả, không gọi là
Tỳ-kheo. Cũng không nên riêng thọ cúng dường mà không chia cho chúng Tăng.
Ngoại trừ thỉnh thuyết
pháp, truyền giới hoặc một lý do chánh đáng khác thì không phạm.
Luật dạy : Chúng Tăng
được bất cứ lợi dưỡng gì, trên phải cúng dường Tam-bảo, dưới kính dâng các bậc
có ân đức. Rộng ra bố thí khắp hữu tình. Cho nên thọ biệt thỉnh, chẳng những đã
cướp đoạt của mười phương Tăng mà còn là riêng hưởng vật của 8 phước điền
(Phật, thánh nhân, Hòa-thượng, A-xà-lê, những vị xuất gia, cha, mẹ, bệnh nhân).
Tất cả lợi dưỡng nếu sử dụng chung thì phước đức rất lớn. Nếu riêng dùng cho cá
nhân thì mắc tội vô lượng.
Giới này chế cho cả 5
chúng xuất gia. Cũng áp dụng luôn cho hàng tại gia, không được lấy lợi dưỡng
của chúng Tăng thọ dụng như của mình.
Du
Già Bồ-tát Giới Bổn : Đàn việt cầu phước tuệ, phát tâm thỉnh Bồ-tát hoặc đến nhà hoặc
trong chùa để cúng dường uống ăn cùng các vật dụng khác. Nếu vì kiêu mạn hay
sân giận mà không tùy thuận, Bồ-tát phạm khinh cấu tội. Nếu chỉ vì lười biếng
hoặc vô tâm, hoặc có lý do chánh đáng, không thọ thỉnh không phạm.
HỎI : Chính Phật vẫn thọ
biệt thỉnh, làm sao lại chế giới cấm Tăng chúng ?
ĐÁP : Bồ-tát Tỳ-kheo
phải ở trong quy luật của Tăng chúng. Phật bảo là vô thượng phước điền. Mỗi thế
giới chỉ có một Phật nên khi thọ thỉnh, đức Thích Ca không đoạt lợi dưỡng của
Phật nào.
HỎI : Vậy Bồ-tát xuất
gia phải vâng theo Phạm Võng Tâm Địa Giới Bổn hay Du Già Bồ-tát Giới Bổn ?
ĐÁP : Vâng theo cả 2. Ở
trong chúng, ta vâng theo Phạm Võng kinh, đúng pháp tắc lục hòa thứ tự thọ
thỉnh. Khi ở ngoài đại giới ta vâng theo Du Già Bồ-tát Giới, để từ bi nhiếp thủ
chúng sanh, hoằng thuận giáo hóa.
Dù trường hợp nào cũng
luôn luôn trí tuệ Bát Nhã hiện tiền, vô ngã vô pháp. Lợi dưỡng ăn uống hay tài
vật gì chăng nữa cũng chẳng phải của ta. Xuất gia là đã đem thân mạng cúng
dường Tam-bảo thì nhất nhất ba nghiệp phải như pháp như luật như lời Phật dạy.
Đừng giờ phút nào quên : Tất cả lợi dưỡng là của mười phương Tăng và của 8
phước điền. Không một thứ gì là của riêng ta. Giới điều không thọ biệt thỉnh là
một sự tướng điển hình. Bồ-tát Tỳ-kheo phải đỉnh đới vâng trì.
28/. BIỆT THỈNH TĂNG
Không biệt thỉnh ai
riêng có quan hệ thân thích mà không để tâm cúng dường các vị xuất gia khác.
Phật tử tại gia thông thường kén người mình thích mới cúng dường. Đức Phật chế
lập giới này để ngăn chặn sự thiếu bình đẳng. Ai phàm ai thánh, ta đâu có thể
phân biệt. Nếu y theo lời Phật dạy, theo thứ tự thỉnh một vị thì vị này đại
diện cả mười phương thánh phàm Tăng. Nên thí chủ tuy chỉ cúng một vị mà được cả
mười phương thánh phàm Tăng làm phước điền. Lại tâm niệm không lựa chọn, một
lòng cúng dường mười phương Tăng thì phước đức như hư không. Nếu tâm niệm chú ý
vào một người thì chỉ được phước cúng một người ấy.
Luật thỉnh chúng Tăng
theo thứ tự, không phải riêng đức Bổn Sư chế lập mà là giáo pháp của cả 7 Như
Lai (Tỳ Bà Thi, Thi Khí, Tỳ Khí La, Câu Lưu Tôn, Câu Na Hàm Mâu Ni, Ca Diếp,
Thích Ca). Tuy vậy, không phạm :
1. Thỉnh Tăng để thuyết
pháp, truyền giới, giáo hóa thì phải chọn bậc đạo cao đức trọng.
2. Tùy thuận quyền lực
quốc vương.
29/. TÀ MẠNG
Phật tử xuất gia có 3
lối sống thanh tịnh, tránh cho tâm địa không bị 3 độc tham, sân, si ô nhiễm.
1. Khất thực.
2. Thọ dụng thức ăn
trong chúng Tăng.
3. Thí chủ đem đến cúng
dường.
Tỳ-kheo tự tay làm món
ăn, nếu để cúng dường đại chúng thì không phạm. Nếu tự nấu nướng cho mình dùng,
rất trái ý Phật. Tỳ-kheo cần khất thực, ai cho gì dùng nấy, không chứa để,
không lo toan, không mưu sống, một lòng rảnh rang để quán vô thường vô ngã.
Nhất tâm cởi gỡ ngã ái ngã mạn, để trưởng dưỡng pháp thân tuệ mạng.
Đại
Trí Độ Luận : Tịnh
Mục Nữ thỉnh vấn tôn giả Xá Lợi Phất về vấn đề tà mạng. Tôn giả đáp : Người
xuất gia làm ruộng, trồng tỉa, làm rẫy, bào chế thuốc v.v… gọi là hạ khẩu thực.
Người xuất gia ngước xem tinh tú, nhật nguyệt gió mưa, phán đoán lợi hại để làm
nghề sinh sống gọi là ngưỡng khẩu thực. Người xuất gia mưu cầu tài lợi bên các
nhà quyền quý, đi sứ bốn phương, gọi là phương khẩu thực. Người xuất gia dùng
các thứ chú thuật, coi bói xem tướng v.v… gọi là tư duy khẩu thực.
Này đại tỷ, Tỳ-kheo khất
thực là nếp sống thanh tịnh duy nhất.
Lại có 5 thứ tà mạng :
1/ Giả hiện tướng
khác lạ.
2/ Tự khoe công
đức.
3/ Lớn tiếng hiện
oai.
4/ Khích động tâm người
khiến cúng dường.
5/ Giả vờ ở rừng sâu núi
thẳm hy vọng danh lợi.
30/. QUẢN LÝ BẠCH Y
Giới này có 3 điều :
1- Không kính hảo thời.
Theo cổ truyền, hảo thời là những ngày tháng thiên thần du hành nhân gian để
thưởng thiện phạt ác. Đức Phật khuyên đặc biệt chú ý đến hảo thời vì lòng người
kính sợ chư thiên và quỷ thần nên cố gắng tu hành. Lấy những ngày cố gắng này
làm mẫu mực để tập thành thói quen. Như thế gian, hiếu hạnh là bổn phận quanh
năm và trọn đời nhưng vẫn cần đặt ra một ngày thầy cô để cổ động nhân tâm. Phật
giáo cũng có lễ Vu Lan, ngày rằm tháng 7, để nhắc nhở con cháu cầu cho cha mẹ
thoát ly sanh tử. Chúng ta lầm nếu cho rằng chỉ những ngày trai mới cần như
pháp tu hành. Ngoài ra có thể tùy ý buông lung tạo tội.
2- Rất sai lầm nếu cho
rằng Thanh-văn bắt buộc nghiêm trì giới luật còn Bồ-tát lợi tha nên tùy nghi
phương tiện. Có những Bồ-tát xum xoe lăng xăng, ra dáng kính quý Tam-bảo lắm
lắm. Đâu có dè thân không đúng giới luật oai nghi. Tự mình đức hạnh không kiện
toàn làm sao giáo hóa thuyết phục chúng sanh ? Miệng nói đạo lý giải thoát vô
thường vô ngã mà đời sống luôn biểu hiện ba độc tham, sân, si. Lời nói việc làm
không đi đôi thành ra đem thân hủy báng Tam-bảo. Người này ý nghiệp không vào
khuôn phép tu hành. Như thế cả ba nghiệp tương phản với chánh pháp cho nên kinh
văn gọi là ác tâm.
3- Đức Phật không muốn
có những chuyện trái ngược. Tại gia làm việc của người xuất gia như đứng làm
thầy truyền tam quy, ngũ giới, đứng chủ chỉ huy các việc trong chùa. Xuất gia
làm việc tại gia như kinh doanh buôn bán, làm ruộng trồng cây v.v… để có lợi
dưỡng nuôi chúng.
Muốn Phật pháp hưng thịnh
cần khẩn cấp vạch rõ phương thức hành động cho cả Tăng lẫn tục. Bổn phận xuất
gia phải dẫn dắt hàng tại gia tu hành đúng pháp. Bồ-tát tại gia lấy việc hộ
pháp làm nhiệm vụ chính.
Không
làm quản lý cho hàng bạch y : Công việc của cư sĩ không phải là bổn phận người xuất gia phải lo
liệu.
31/. KHÔNG CỨU CHUỘC
Kinh luật là con mắt của
nhân thiên. Tăng Ni là phước điền của thế gian, là sứ giả duy trì chánh pháp,
là người lãnh đạo tất cả Phật tử, là đạo sư trên đường giải thoát. Bồ-tát là bi
mẫu cứu khổ ban vui, dẫn dắt chúng sanh về Vô-thượng Bồ-đề. Chúng ta không thể
để ngôi Tam-bảo bị hủy nhục mà không tận tình bảo vệ.
32/. TỔN HẠI CHÚNG SANH
Bồ-tát lấy từ bi hỷ xả
làm cơ bản, lấy lục độ vạn hạnh làm phương tiện, lấy bố thí vô úy làm phận sự.
Chúng sanh có an vui Bồ-tát mới an tâm. Nuôi chó để giữ nhà thì cho phép. Nuôi
heo để bán cho người ăn thịt, nuôi mèo để bắt chuột thì cấm.
33/. TÀ NGHIỆP GIÁC QUÁN
Bồ-tát ngoài thời giờ
hữu ích cho chúng sanh, phải thanh tịnh bặt duyên, dụng công chánh nghiệp xuất
thế, không để quang âm trôi qua luống uổng. Những điều trong giới này cấm là vì
tăng trưởng buông lung, tổn hại thiện nghiệp. Thô phân biệt là giác. Vi tế xem
xét là quán. Mống khởi suy tư là giác. Trầm tư suy nghĩ là quán. Tư duy ích
nhân lợi thế là chánh nghiệp tăng trưởng tâm hướng thượng. Tào lao sáu căn vào
các tạp loạn vô ích là tà nghiệp. Phá hoại đạo pháp, hủy phạm tâm địa giới thể,
không gì độc hại hơn những thứ này. Đã tinh tấn tu phước tuệ thì phải lìa phóng
dật, tránh tất cả những duyên khiến xao lãng tâm Bồ-đề.
Trường hợp thiện quyền,
uyển chuyển tình thế, Bồ-tát tạm thời đồng sự để nhiếp hóa chúng sanh thì được.
Như Mạt Lợi phu nhân uống rượu với vua Ba Tư Nặc để cứu người đầu bếp khỏi bị
tử hình.
34/. TẠM LÌA TÂM BỒ-ĐỀ
Tạm quên tâm Bồ-đề không
thể huân tu vạn đức, không thể hy vọng thành Phật. Bồ-tát niệm niệm không quên
bốn hoằng thệ nguyện.
Làm thế nào giữ gìn tịnh
giới như ngọc minh châu ? – Thường đọc tụng, tìm hiểu khai giá trì phạm. Tâm
như kim cương, không một phiền não phá hoại được, không hoàn cảnh nào khiến vi
phạm giới phẩm. Luật thí dụ một người đeo trái nổi bơi qua biển lớn. Bỗng một
La-sát tới năn nỉ xin trái nổi. Dĩ nhiên là không được. La-sát thiết tha xin
một nửa. Cũng không cho. La-sát van xin ¼. Cuối cùng chỉ xin một châm kim. Cũng
không đồng ý. Tại sao keo kiệt quá vậy ?
Phật tử qua biển sanh tử
hoàn toàn nương vào tịnh giới. Quỷ phiền não bức bách đến đâu cũng không dám tơ
hào vi phạm mới bảo toàn được tuệ mạng. Kinh kể một chuyện có thật : Thời Phật
còn tại thế. Bọn cướp đi ngang qua một khu rừng, thấy một Tỳ-kheo đang hành
thiền, sợ bị lộ tông tích, muốn giết đi cho xong. Một người am hiểu đưa ý kiến
: Giới luật Tỳ-kheo không được bứt cây cỏ sống. Ta chỉ cần cột hai tay họ vào
cỏ tranh là xong việc. Quả thật, Tỳ-kheo đành ngồi im. May sao một quốc vương
đi săn ngang qua, hỏi biết chuyện, mở trói cho Tỳ-kheo, đưa về tịnh xá Phật.
Tín tâm lành đối với đại
thừa là tin chắc mình có Phật tánh chánh nhân, mai sau quyết định sẽ thành Phật
quả. Thiếu chánh tín đại thừa, chẳng những tự độ không trông mong mà lợi tha
càng trễ nải.
a/- Tín tâm lành đối với
đại thừa là Tín.
b/- Hộ trì cấm giới là
Hạnh.
c/- Tự biết mình là Phật
chưa thành là Giải.
Trí thể bản giác là đại
Bồ-đề tâm.
Một niệm tuy rất ngắn và
tạm thời nhưng nó có thể làm gốc gây thương tổn cho Phật chủng. Để ngăn ngừa ma
nghiệp, một niệm thoái thất Bồ-đề tâm, Bồ-tát phải thận trọng sám hối.
35/. KHÔNG PHÁT NGUYỆN
Phát nguyện là vấn đề
hết sức trọng yếu để hạnh Bồ-tát không thoái lui. Hạnh có thành thục mới hy
vọng quả Phật. Tự vạch một hướng đi thẳng về đại viên giác diệu trang nghiêm
mới không bị ma thâu nhiếp, tránh những nguy hiểm đọa lạc. Nguyện là lập chí.
Thệ là quyết định mạnh mẽ thực hiện. Bồ-tát phát nguyện :
1. Hiếu thuận với cha mẹ
sư tăng Tam-bảo.
2. Giữ vững giới luật.
3. Gặp thầy hay bạn lành
đồng học kinh luật đại thừa.
4. Tiến tu 10 Tín, 10
Trụ, 10 Hạnh, 10 Hồi Hướng…
5. Đi trọn vẹn con đường
Bồ-đề.
36/. KHÔNG PHÁT THỆ
Vì sức mạnh của tập quán
hết sức mãnh liệt, tội chướng từ vô thủy vẫn có áp lực nặng nề đến bước tiến
giải thoát cho nên Bồ-tát phải lập thệ. Nguyện như thầy dẫn đường khỏi lạc. Thệ
như người đi sau thúc đẩy để bảo đảm không lui sụt. Thệ bảo vệ cho nguyện được
kiên cố. Nguyện như cầm dây cương. Thệ như roi thúc giục.
Bồ-tát lập bốn hoằng thệ
:
1) Xa lìa dục nhiễm.
2) Giữ mình chân chánh
xứng thọ cung kính cúng dường.
3) Sáu căn trong sạch.
4) Độ tất cả chúng sanh
đồng thành Phật đạo.
37/. VÀO NƠI HIỂM NẠN
Đầu
đà : Nạo sạch phiền não ẩn
tàng trong tâm từ vô thủy. Tăng trưởng thiện căn công đức. Hồi hướng Vô-thượng
Bồ-đề.
12
hạnh đầu đà :
1) Ở nơi thanh vắng.
2) Khất thực.
3) Y phấn tảo.
4) Ngày một bữa ngọ.
5) Không uống nước phi
thời.
6) Không ăn đến no.
7) Ở ngoài gò mả.
8) Ở gốc cây.
9) Ở nơi không mái che.
10) Thường ngồi không
nằm.
11) Thứ lớp khất thực.
12) Không chứa y dư.
Hạnh đầu đà không bắt
buộc, tùy nguyện mỗi người.
Hy sinh chỉ khi nào cần
thiết. Còn ỷ mình cao đạo, dấn thân vào chỗ tai nạn, chịu khổ vô ích là ngu si.
Những nơi nhiều kiến muỗi ruồi, không đủ vệ sinh cũng là hiểm nạn.
38/. TRÁI TÔN TI THỨ TỰ
Căn cứ giới lạp nhiều ít
mà phân chia cao thấp. Trường hợp không phạm :
a- Đại chúng đã an tọa
đâu đấy. Dù là người trên nhưng đến sau nên nhũn nhặn ngồi dưới.
b- Pháp sư bắt buộc phải
ngồi tòa cao.
c- Vô tình bất ngờ.
Có người ngại : Phật
pháp lưu hành trong thế gian mà đảo lộn trật tự cha con vua tôi thì đời sống sẽ
mất bình an. Đáp : Tinh thần đại nghĩa trung hiếu không đâu hơn Phật giáo.
Nhưng tối yếu phải tôn trọng giới pháp. Trường hợp quốc vương cha mẹ còn cố
chấp thì đạo làm con và bề tôi phải tùy duyên cho ổn thỏa. Phật đặt ra giới
luật người xuất gia không đỉnh lễ cha mẹ vua quan chính là vì sợ tổn đức cho
người tại gia.
Giới này cả 7 chúng, đại
thừa tiểu thừa đều vâng giữ. Kinh Thiện Sanh : Ưu-bà-tắc đi trước người
xuất gia đã thọ giới, mắc tội thất ý.
39/. KHÔNG TU PHƯỚC TUỆ
Chim cần hai cánh, xe
cần hai bánh. Người tu cần phước tuệ. Có phước như thuyền có chèo, có tuệ như
thuyền có lái, không thể thiếu một.
Kinh
kể chuyện :
Một A-la-hán được sự cúng dường quá thiếu thốn thậm chí cơm không đủ no. Phật
dạy : Đây là vì quá khứ ngài kém tu phước.
Đồng thời vua có con
voi, cho ăn ở sung sướng lại còn anh lạc trang nghiêm. Phật dạy kiếp trước nó
có tu hành nhưng chỉ để tâm về sự tướng, không có trí tuệ giác tỉnh. Làm nhiều
phước duyên nhưng giữ giới luật không đúng ý nghĩa nên đọa làm bàng sanh.
Tài thí là tu phước,
pháp thí là tu tuệ.
Bồ-tát khuyến hóa các
Phật tử làm phước, cẩn thận chớ có cưỡng ép. Lui tới thường xuyên quấy rầy.
Người ta thoái tín tâm. Mượn việc công để lợi ích riêng tư là giặc trong cửa
Phật.
Tu phước mà có tuệ, hằng
quán tam luân không tịch, mới thật là Bồ-tát hạnh. Cho nên kinh văn dạy : “Phải
giảng nói kinh luật đại thừa” để khai tuệ cho chúng sanh. Kinh luật đại thừa
xuất sanh tất cả các thiện pháp môn nên có thể cứu sanh độ tử, lưỡng lợi âm
dương, trị liệu tất cả thân bệnh tâm bệnh, cứu gỡ hết thảy hiểm nghèo. Nếu hay
đọc tụng giảng nói thì bất luận hoàn cảnh nào, ta người đều lợi ích.
40/. KHÔNG BÌNH ĐẲNG
TRUYỀN GIỚI
Truyền trao giới pháp,
nhiếp thủ chúng sanh vào đại đạo, là trách nhiệm của Bồ-tát.
Trong sự không lựa chọn
vẫn phải có lựa chọn. Không cho người đã phạm một trong 7 nghịch thọ giới. Phải
đã phát Bồ-đề tâm, hiểu lời nói của giới sư, y phục hoại sắc.
41/. VÌ LỢI LÀM THẦY
Tự mình không tài đức mà
miễn cưỡng làm thầy để cầu danh lợi.
Muốn thọ Bồ-tát giới,
điểm chính yếu phải thông hiểu giáo pháp đại thừa, tin tâm mình có thể thành
Phật. Muôn pháp lành từ đây phát sanh. Phải nhớ rằng : Không thiện tri thức dạy
bảo thì dù có sẵn Phật tánh cũng không thể thành Phật.
Bậc thầy phải rành rẽ
con đường Bồ-đề để dẫn bước hậu lai :
1. Thập Tín.
2. Thập phát
thú tâm : Tập chủng tánh : 10 Trụ. Do tu
pháp không quán, trí tuệ khai phát thành nhất thiết trí, chứng bất thoái (Trụ).
3. Trưỡng dưỡng
tánh : Tánh chủng tánh: 10 Hạnh. Trưởng dưỡng
tâm từ chân đế vào tục đế, lợi ích tất cả chúng sanh, tiến tu giả quán, phân
biệt chủng tánh sai khác của chúng sanh trong 10 pháp giới, trưởng dưỡng thánh
thai, thấy lý tục đế, pháp nhãn khai phát, thành đạo chủng trí. Thập trụ ở trên
ngộ lý chân đế. Từ đây thú hướng tu hành nên gọi là Hạnh.
4. Bất khả hoaïi
tánh : Đaïo chủng tánh : 10 Hồi Hướng : 10
Kim Cương tâm. Tu pháp quán trung đạo, nhậm vận thi thiết vô công dụng đạo
(không dùng công phu. Việc này phàm trí suy tư không thể hội. Tạm thí dụ như
người đánh máy chữ hay đi xe đạp. Lúc mới tập phải lưu ý dụng công. Đã thuần
thục không cần dụng công). Hạnh nguyện, sự lý đều dung thông, lưu nhập trong
pháp giới. Đem sự tu hướng về lý tánh nên gọi là hồi hướng. Lý tánh bền như kim
cương nên gọi là bất khả hoại. Chánh tu (đạo) phát sanh Phật quả nên gọi là đạo
chủng tánh.
5. Chánh pháp
tánh : Thánh chủng tánh: Chánh giác tánh : thập
Địa + đẳng giác + diệu giác. Từ sơ Địa trở đi, quán trung đạo, dùng trí đoạn
nghi hoặc. Mỗi Địa phá một phần vô minh. Đến kim cương vị trừ sạch vô minh là
thành Phật.
Bồ-tát pháp sư cần hiểu
rõ những tánh nói trên nhất là những quán haïnh đa thiểu.
Tập chủng tánh tu không quán ít đến trưởng dưỡng tánh tu không quán nhiều. Tánh
chủng tánh tu giả quán ít đến bất khả hoại tánh mới nhiều. Đạo chủng tánh tu
trung quán ít đến chánh pháp tánh mới tu nhiều.
Cũng có nơi cho rằng :
Từ sơ Địa đến Địa 4 quán vô tướng ít hữu tướng nhiều. Từ Địa 5 đến Địa 7 tu hữu
tướng ít vô tướng nhiều. Từ Địa 8 đến đẳng giác thuần vô tướng quán.
Xuất
nhập : xuất định và nhập định.
Sơ
thiền : giác + quán + hỷ + lạc +
nhất tâm = 5 chi.
Nhị
thiền : nội tịnh (+ hỷ + lạc +
nhất tâm).
Tam
thiền : xả + niệm + huệ (+ lạc
+ nhất tâm).
Tứ
thiền : không khổ không vui (+
xả).
Tổng cộng có 10 pháp
duïng trong thiền quán. Bốn thiền là
thiền định thế gian nhưng nương đây tiến vào thánh vị nên Bồ-tát cần thông hiểu
để tự lợi lợi tha.
Không hiểu giới tướng
khinh trọng trì phạm thì không thể quyết nghi xuất tội. Không hiểu đệ nhất
nghĩa đế thì mù mờ nơi giới lý (thể tánh của giới), không thể phát chân tín
giải. Không hiểu tập chủng tánh v.v… thời mù mịt nơi định cộng giới, không thể
tu chứng quả vị.
42/. VÌ KẺ ÁC NÓI GIỚI
Thông hiểu giới luật mà
vì danh lợi giảng nói cho những người không tin, không ưa Phật pháp.
Đức Phật vì đệ tử chế
định giới luật nên giới luật chỉ cần dùng cho sự sinh hoạt trong nội bộ. Đem ra
giảng nói với người ngoài chẳng những vô ích mà còn gây những phỉ báng, mua tội
cho chúng sanh, đem bất lợi cho đạo pháp. Bồ-tát phải có trí tuệ biết ai là
pháp khí mới cho nghe giới luật.
Giới Tỳ-kheo tuyệt đối
cấm người chưa thọ giới không được xem và nghe. Bồ-tát giới, người chưa thọ
không được tham dự nghe ngày bố tát. Còn những trường hợp giảng ý nghĩa của
giới thì được nghe cũng được xem giới bổn. Nhưng phải xét người.
43/. CỐ KHỞI TÂM PHẠM GIỚI
Vô ý lỡ phạm tuy không
thể nói là vô tội nhưng rất nhẹ. Cố ý vi phạm giới luật, không hổ thẹn. Tự mình
đã không giải quyết được sự sa đọa, làm sao còn có thể là phước điền cho các thí
chủ ? Cho nên mỗi khi vi phạm phải chí thành khẩn thiết sám hối.
Câu
Xá Luận : Người phạm căn bản
trọng tội không cho ăn một miếng nhỏ thực phẩm của đại chúng. Không cho gót
chân được đặt vào chỗ cư ngụ của đại chúng.
Đại
Trí Độ Luận :
Mỗi giới Bồ-tát có 10 thiên thần theo ủng hộ. Bồ-tát đầy đủ giới phẩm, vua Đế
Thích và chư thiên theo hầu. Nếu hủy phạm thì có đại quỷ luôn án trước mặt,
khiến mất an ổn, gặp nhiều tai nạn.
Cũng như ở nhân gian,
người có địa vị tôn quý ngựa xe lính hầu luôn ở bên mình. Một khi đã trái phạm
phép nước thì liền bị tống giam, ngày đêm có ngục tốt canh giữ. Ngục tốt chẳng
những kèm hãm khiến người ấy mất tự do lại còn không chút vì nể, mắng nhiếc là
gã bợm giặc.
Bọn trộm cướp tuy là đại
ác nhưng được nghe giảng về tội phước, có khi cũng biết kinh sợ. Còn những
người nương hình tướng xuất gia, tiếp thọ của cúng dường mà không nghiêm cẩn
giới luật, bị mắng là bợm giặc, ai bảo là không đúng ?
Người phá giới, oai nghi
không phấn chấn, suy tướng hiện tiền nên tất cả chúng sanh đều không muốn nhìn
ngó huống nữa là sống chung.
Luật Thanh-văn không kết
tội hủy giới thọ tín thí, cũng không kết tội phạm giới trong tâm niệm. Chỉ khi
nào hiện tướng ở thân miệng mới kể là thật sự phạm giới. Bồ-tát phải giữ gìn
nội tâm nghiêm mật, khởi tâm động niệm mỗi giây mỗi phút phải tự cảnh tỉnh.
Hãy nghe công hạnh người
xưa : Tổ Hành Nhạc trọn đời mặc một áo bông vải thô xấu. Tổ Thiên Thai 40 năm
một chiếc nạp y. Tổ Vĩnh Gia không mặc áo tơ tằm. Tổ Kinh Khê trong thất chỉ
một cái đơn. Quý ngài thâm hiểu đại thừa nên mới có nếp sống y ly như vậy.
44/. CÚNG DƯỜNG KINH LUẬT
Pháp bảo là mẹ chư Phật.
Quả Vô-thượng Bồ-đề từ kinh luật xuất sanh. Tôn trọng diệu pháp mới y đây tiến
tu. Hành vi mới cố gắng thể hợp chánh đạo. Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng
sanh, đều nương cậy ở kinh điển. Làm sao không cung kính cúng dường ? Tuệ mạng
Như Lai hoàn toàn nằm trong tam tạng, không cúng dường kinh điển còn cúng Phật
ở đâu ? Nhất tâm thọ trì đọc tụng kinh luật đại thừa là đệ nhất cúng dường. Xả
thân học đạo, tận tình truyền bá lưu thông, giảng nói không chán mỏi là biết
đền ơn Phật.
Bồ-tát phải vâng theo 5
việc : thọ trì, đọc tụng, lưu thông, cúng dường, như pháp thực hành. Hiện nay
kỹ thuật ấn loát rất tiến bộ, Phật tử xuất gia tại gia ấn tống kinh luật là
phương tiện tối thắng để cúng dường pháp bảo.
45/. KHÔNG GIÁO HÓA CHÚNG SANH
Bồ-đề tâm là động lực
thành Phật nên Bồ-tát phải giáo hóa chúng sanh phát tâm Bồ-đề. Kinh Pháp Hoa :
“Nếu đem tiểu thừa giáo hóa là ta bỏn sẻn”. Thường khởi tâm đại bi. Thiết tha
liên tục cứu khổ chúng sanh. Lấy việc này làm khẩn thiết.
Phật Pháp Tăng là phước
điền quý báu. Một thiên tử ở cõi trời Đao Lợi biết mệnh chung sẽ đọa làm heo,
vội quy y Phật liền thoát thân heo, sanh làm con nhà trưởng giả. Chúng sanh nào
cầu thoát sanh tử cũng phải quy y Tam-bảo.
Tỳ-kheo tụng kinh trong
rừng. Một con chim nghe âm thanh, rất ngưỡng mộ. Đang mải nghe, chim bị bắn
chết. Thần thức lên trời Đao Lợi, thiên nhãn biết kiếp trước mình là chim ở chỗ
ấy. Vội đem hoa hương tới chỗ Tỳ-kheo. Tỳ-kheo giảng pháp yếu. Ông trời liền
chứng Tu-đà-hoàn.
Phật nói pháp ở thành Ba
La Nại. Một đàn nhạn đáp xuống nghe, bị thợ săn bủa lưới. Xả thân, cả đàn sanh
lên trời. 500 thiên tử xuống nhân gian, cúng dường Phật, nghe pháp, tất cả đều
chứng Tu-đà-hoàn.
Luật dạy Bồ-tát mỗi khi
gặp bất luận con gà hay con kiến, liền tâm nghĩ miệng nói : “Các ngươi phát
Bồ-đề tâm”. Đây là dùng tâm lực kêu gọi sự thức tỉnh.
Trong kinh Kim Quang
Minh, Lưu Thủy trưởng giả thấy một cái ao cạn nước, hàng vạn con cá lâm nguy.
Ông vội mượn voi của vua, chở nước cấp cứu. Thấy đàn cá sung sướng bơi lội, ông
cảm hứng hô lớn danh hiệu đức Bảo Thắng Như Lai những mong cho cá nhờ thần lực
Phật thoát khổ.
Tưởng như xong việc thì
thôi. Không dè một bữa kia, ánh sáng chói lòa từ trên trời rọi xuống. 10.000 thiên
tử tự xưng là hậu thân của đàn cá, đem các thứ châu báu đến quỳ lạy tạ ân.
Luật
Sadi kể chuyện :
Ngài Xá Lợi Phất đi khất thực, gặp một con chó bị chủ chặt chân ném xuống hố.
Ngài cho nó ăn cơm. Chó vẫy đuôi mừng. Ngài giảng pháp cho nó nghe. Thân đói khát
phải chết nhưng pháp hỷ nuôi dưỡng tinh thần. Chó sanh vào nhà ông trưởng giả
được tên Quân Đề. Bảy tuổi, đứng chơi ở cửa. Ngài Xá Lợi Phất đi qua. Ân tình
đã ghi sâu trong tạng thức nên chú bé quấn quýt mời ngài vào nhà, xin cha mẹ
cúng dường và nhất định theo ngài Xá Lợi Phất xuất gia. Về sau chú bé chứng quả
A-la-hán.
Người kể chuyện sau này
tên Hải Triều Âm ở tịnh thất Linh Quang, thôn Phú An, Đức Trọng, Lâm Đồng : Vào
khoảng năm 1985, trong nhà có rất nhiều chuột, mỗi tối tôi để cho họ một chén
cơm ở góc nhà. Sáng nào cũng hết sạch. Không bao giờ chuột gặm nhấm kinh sách,
quần áo chăn mùng cho đến trái cây ở trên bàn Phật. Năm này sang năm khác. Chỉ
cứ cái thùng đựng giấy bỏ, là họ thường tới lui, cắp giấy đem về lót ổ nuôi
con. Tôi ngồi ngay tại bàn đọc sách. Họ thản nhiên đi lại như biết chắc thùng
giấy này tha hồ ta có quyền sử dụng.
Sư cô Thanh Đức, một đệ
tử ở Sài Gòn lên thăm, nghỉ một đêm. Chiều hôm sau, bỗng Sư cô la thất thanh :
“Chuột cắn hết tiền của con rồi”. Sư cô đem lên Phú An 200.000 đồng (hồi đó là
món tiền lớn) định mua đất để làm cốc ở riêng một mình. Sợ Thầy biết nên đem
giấu trong một tấm y. Cả ba tấm y để trong túi. Túi y giấu trong đống chăn
mùng, xếp cả trong một cái tủ không có cánh đóng mở. Tất cả chăn mùng vẫn y
nguyên. Túi không bị rách. Ba tấm y an lành. Nắm tiền nát bấy không còn vớt vát
sử dụng được lấy một đồng.
Nhớ hồi xưa, tôi nhập
thất tại một ngôi nhà trong khuôn viên chùa Vạn Đức ở Thủ Đức. Vùng đó có nhiều
chó. Tôi xin bà giáo Khôi phát tâm thuê một người thổi cơm. Cứ 4 giờ chiều là
mấy chục con chó từ các nơi đổ về đầy sân. Mỗi con chỉ một tô cơm không. Ăn
xong ra về. Dù mưa bão vẫn đến. Tự biết phận ăn nhờ, không hề cắn sủa nhau.
Gạo để ở trước chánh
điện. Hàng ngày tôi trì chú Dược Sư cầu nguyện cho những con vật này sớm được
giải thoát. Chợt một hôm, vài chú chuột rụt rè từ cửa sổ vào tới bao gạo. Tôi
nghĩ : “Đã bố thí thì chó hay chuột đều có phần”. Nên tôi cứ mặc. Thế là cả họ
nhà chuột xô nhau tới. Có con ăn rồi về. Có đứa ở lại luôn. Chúng tôi hòa bình
chung sống một thời gian dài. Cho tới một hôm, như thường lệ, tôi để mâm cơm
trước mặt, xới sẵn một chén cơm. Tôi chắp tay nhắm mắt đọc bài cúng dường. Đọc
xong, tôi mở mắt ra, thấy một chú chuột ngồi ngay trên chén cơm, hai tay bốc ăn
ngon lành. Tôi xua chú chạy và trong lòng tự nghĩ : “Thế này thì quá lắm, không
thể được”. Từ hôm ấy, trong thất không còn một con chuột. Chúng lặng lẽ bỏ đi
lúc nào không hay. Từ đấy không một con nào quay trở lại dù là tạ gạo vẫn mở
ngỏ trước chánh điện.
Lại một thời gian lâu lắm
về sau, một hôm tôi xuống bếp. Cô thị giả thổi cơm. Chỗ ống khói có tiếng mèo
kêu. Tôi vội bảo thị giả đun chỗ khác. Vì chỗ ấy chắc có con mèo hoang nào bị
hun. Từ đó mỗi bữa tôi để ở chỗ ấy một chén cơm. Ngày nào cũng hết sạch. Rồi
một ngày kia, tôi bỗng thấy ngay trong phòng tôi, nép trong xó cửa một con mèo
và 3 con nhỏ xíu. Luật Bồ-tát giới cấm không được nuôi mèo chồn nên tôi phiền
lắm, rất không muốn mẹ con nó ở đó. Ra vào, tôi vẫn trông thấy mẹ con nó núp
dưới hốc cửa nem nép sợ hãi. Cho tới một hôm, đứng trước tủ, tay mở cửa tủ,
nhìn ra chỗ mẹ con nó ẩn núp, trong tâm tôi nghĩ rằng : “Thôi, đành phạm
giới luật. Nuôi mẹ con nó vậy. Chúng nó khổ thế kia, nỡ nào !” Tay tôi chưa rời
cánh tủ, 3 con mèo con đã chạy ra, bổ nhào vào chân tôi.
Rõ ràng trực giác của
loài vật rất mạnh. Tâm Phật, tâm mình và tâm chúng sanh không hề gián cách. Tâm
Bồ-tát tha thiết quyết có ảnh hưởng lớn tới chúng sanh. Đức Phật sai ngài Mục
Kiền Liên đến một thành nọ giáo hóa, dân chúng vui vẻ răm rắp quy y. Phật kể
chuyện : Một kiếp xa xưa, một tiều phu đẵn củi trong rừng, động phải một tổ
ong. Cả đàn bay ra. Ông tiều vừa chạy vừa la : “Khi ta đắc đạo, quyết sẽ độ cho
các ngươi đồng giải thoát”. Ông tiều phu là Mục Kiền Liên ngày nay. Đàn ong là
dân thành kia. Vì tâm độ chúng sanh đã thuần nên Phật tử cứ gặp loài nào là
phát tâm tế độ. Quên cả đau khổ bị ong đốt, nghiệp lực thánh thiện của ông tiều
đã mở ra nhân duyên khiến cả thành chịu sự giáo hóa.
46/. KHÔNG ĐÚNG NGHI THỨC THUYẾT PHÁP
Pháp sư phải ngồi tòa
cao. Dạy người cung kính trong khi nghe pháp là việc trọng yếu. Coi thường Phật
pháp chiêu vời những quả báo nguy hiểm. Luật Tỳ-kheo rất kỹ về nghi thức thuyết
pháp. Đối với pháp sư phải hiếu thuận như đối với cha mẹ. Kính thầy, trọng
pháp, mới có thâm nhập.
47/. CHẾ HẠN PHI PHÁP
Tự ỷ uy thế, phá hoại
Phật pháp. Hoặc nương cậy quyền thế, làm tổn hoại Tam-bảo, khiến thuyền chánh
pháp bị đắm chìm, ánh sáng trí tuệ bị che lấp.
Không cho xuất gia thọ
giới là phá hoại Tăng bảo. Không cho tạo lập hình tượng là tiêu diệt Phật bảo.
Không cho ấn hành kinh điển là tiêu diệt Pháp bảo. Thế gian mất nơi nương tựa,
trở thành hắc ám và tội ác. Thật là đáng sợ.
Tiến thêm bước nữa, đặt
các chức quan hạn chế hoạt động tôn giáo. Lập sổ bộ ghi chép danh sách chúng
Tăng. Triệt để hạn chế còn nói gì đến tôn kính.
Kinh
Phó Pháp Tạng :
Xà Dụ Na tôn giả vào thành khất thực, nhìn lên cây thấy một con chim. Ngài cười
nói với thị giả : “Một kiếp xưa, ta muốn xuất gia. Đứa con lên 6 tuổi ôm chặt
lấy chân kêu khóc. Vì nó mà ta không được toại nguyện. Tới nay đã trải qua 91
kiếp, nó đã chịu không biết bao nhiêu thống khổ. Nay mới gặp nhau. Ta cảm
thương mà không biết làm sao cứu vớt”.
Kinh
Lão Nữ Nhân :
Một bà già vừa nghe chánh pháp liền khai ngộ. Phật thọ ký cho lâm chung vãng
sanh cõi Phật A Di Đà. Ai nấy ngạc nhiên. Phật giải thích : Đây là mẹ ta thời
quá khứ. Đức Phật Câu Lưu Tôn xuất thế, ta muốn xuất gia. Bà quyết định ngăn
cản nên đã chịu khổ bấy nay.
Kẻ quyền quý ở thế gian
chẳng nên bạc đãi Tăng nhân. Tăng nhân cũng cần tinh thần vô úy, chớ làm tay
sai cho họ.
Quan thái thú ở Hàng Châu tên Bạch Cư Dị vào núi thỉnh pháp. Ô Sào
thiền sư dạy : Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành. Quan phiền trách : Câu
nói ấy thì trẻ nít cũng biết. Sư đáp : Trẻ nít nói được nhưng ông già 80 chưa
làm được. Quan thái thú từ đó trở thành một Phật tử thuần thành.
Vua Đường Thái Tông 3 lần hạ chiếu thỉnh Tứ Tổ Đạo Tín về kinh đô.
Tổ đều chối từ. Lần thứ tư, vua sai sứ nghênh thỉnh với sắc lịnh nếu không tuân
thì chém. Tổ khẳng khái đưa cổ ra dưới lưỡi gươm sáng ngời. Sứ giả không dám hạ
thủ, trở về tâu vua. Vua kính phục gởi lễ vật rất hậu cúng Tổ. Từ đấy không dám
quấy nhiễu Tổ nữa.
Người lãnh đạo quốc gia vì hộ pháp trừng trị những hư đốn trong
các chùa, đã không phạm giới còn được vô lượng công đức.
48/. PHÁ DIỆT PHẬT PHÁP
Giới trên răn hàng Bồ-tát tại gia không được phá hoại Phật pháp.
Giới này đức Phật ngăn cấm hàng xuất gia. Rường cột trong Phật pháp mà lại vì
tài lợi cá nhân, phá hại đồng đạo, tổn thương chánh pháp. Bên trong phá hòa hợp
chúng, bên ngoài đoạn tuyệt lòng kính tin Tam-bảo của người đời.
Nghe một tiếng hủy báng Tam-bảo, Bồ-tát đau đớn như hàng trăm ngọn
giáo đâm vào tim. Dao gậy đánh chém đau đớn muôn phần nhưng chỉ một thân ta
đau. Hủy diệt chánh pháp làm cho vô lượng chúng sanh mất tín tâm, chìm trong
biển khổ luân hồi, biết đến bao giờ mới có ngày giải thoát.
Kinh Đại Tập : Người xuất gia cạo đầu đắp y là đã có dấu ấn
Niết-bàn. Dù không nghiêm trì giới cấm, nếu còn có tâm tin kính Tam-bảo, còn có
thể nói pháp cho hàng nhân thiên. Nếu đánh đập hay đoạt đồ tư dưỡng sanh mạng
cũng là móc con mắt tuệ của thế gian.
TỔNG KẾT
Không những hàng tân học
phải nghiêm mật thọ trì mà quá khứ hiện tại vị lai Bồ-tát đều phải tụng đọc.
Mục đích thọ giáo pháp là cầu giải thoát. Không tinh tấn tức là đã quên bổn
nguyện. Kinh Xuất Diệu : Mùa nắng ao nước sắp cạn mà đàn cá không biết
vẫn nhởn nhơ. Loài người cũng vậy. Già chết đến nơi. Chẳng ai bận lòng. Chỉ mải
lo đầu ruồi tai ếch, mãi tìm thú vui tạm bợ. Đức Phật ân cần nhắc nhở chúng ta
phải từng giờ từng phút y theo chánh pháp, siêng năng thật hành.
KẾT KHUYẾN LƯU THÔNG
Phẩm Tâm Địa đoạn đầu
nói về giới thể (giới tánh). Đoạn sau rành rẽ giới tướng. Chúng ta đã nhiều đời
trồng thiện căn sâu dầy mới được gặp nên phải thận trọng phụng trì. Đức Lư Xá
Na đã tu tập cả trăm kiếp mới chứng được tâm địa này. Chư Phật quá khứ hiện tại
vị lai đều thọ trì và truyền lại cho các Bồ-tát. Đây là bổn nguyên tâm địa của
chư Phật. Chúng sanh mê muội cứ tham chấp thân cảnh hư vọng, sanh các phiền não
tham sân si, mở ra các nghiệp hữu lậu mà chịu khổ mãi trong đường luân hồi sanh
tử.
Đức Thích Ca Mâu Ni Phật
tùy thuận theo chư Phật, tụng 10 trọng 48 giới khinh, mở đường cho chúng sanh
nhận được tâm Phật của mình. Tương lai sẽ cùng đức Lư Xá Na ở đài sen ngàn
cánh. Đời đời thoát ba ác đạo và tám tai nạn.
Ngàn trăm ức Thích Ca ở
ngàn trăm ức thế giới cũng đồng giảng như vậy. (Từ cung đại tự tại thiên vương
đến dưới gốc Bồ-đề, thuyết pháp 10 chỗ.)
Tâm
taïng. Thông nghĩa : Trong
pháp giới, tâm thể bản giác hàm chứa tất cả pháp. Biệt nghĩa : 30 tâm trong
ngôi vị tam hiền.
Địa Taïng. Thông nghĩa : Tâm thể
các pháp bình đẳng không hai, xuất sanh tất cả thiện pháp công đức. Biệt nghĩa
: 10 Địa.
Giới
taïng : Thông nghĩa : Tâm thể
xa lìa tất cả lỗi lầm, đầy đủ oai nghi. Biệt nghĩa : 10 trọng 48 khinh.
Vô
lượng haïnh
nguyện taïng : Thông nghĩa : Từ tâm thể phát sanh. Thực
hành các thiện pháp gọi là hạnh. Thiện niệm giữ gìn hạnh ấy gọi là nguyện. Vô
lượng hạnh như biển cả không cùng. Vô lượng nguyện như hư không không tận nên
gọi là tạng (lục độ vạn hạnh).
Nhân
quả Phật tánh
thường truï taïng : Nhân là chỗ tu hành. Quả là chỗ chứng đắc. Nhân
quả đều tại tâm thể Phật tánh không sanh không diệt. Tự tánh bao trùm phàm
thánh, suốt xưa nay, khắp pháp giới nên gọi là tạng.
Tâm tạng, địa tạng, giới
tạng chính là Bồ-tát tâm địa giới này. Đại hạnh đại nguyện do giới này phát
sanh. Chánh nhân chánh quả do giới này mà được. Thường trụ Phật tánh do giới
này mà chứng.
Tất cả chư Phật giảng
thuyết vô lượng pháp tạng như thế đã xong. Chúng sanh trong thế giới này và
ngàn trăm ức thế giới kia đều hoan hỷ phụng hành. Cơ giáo khế hợp hoàn hảo.
VĂN
KẾT. Rời giới thể, không tỏ
ngộ giới tánh, chỉ trì giới tướng, không gọi là chân thật thọ trì. Điều này rất
quan trọng nên dầu khó dầu sâu, người tu phải cầu tỏ ngộ. Vì thế Bồ-tát giới
gọi là tâm địa pháp môn. Tâm địa tức là bổn tâm tự tánh của mình. Chính từ chân
tâm bổn tánh mà có Bồ-tát giới này. Thọ trì Bồ-tát giới là ương giống Phật
tánh. Muốn mai đây thành cây, đơm bông bi trí, kết quả Bồ-đề, phải : 1) Phát
tâm thành Phật. 2) Tin mình có tánh Phật. 3) Tin rằng đã có tánh Phật mà chăm
tu thì thế nào cũng thành Phật. 4) Dõng mãnh thực hành lời Phật Tổ.
TRÌ PHÁP ĐƯỢC LỢI ÍCH
Tâm địa đại giới phải đủ
định tuệ mới có thể phụng trì. Định lực mạnh, không bị sự vật chuyển động, giữ
gìn giới hạnh trước sau không dời đổi. Tuệ lực mạnh đoạn hoặc chứng chân, viên
dung sự lý vô ngại. Chẳng những tương lai quyết định thành Phật mà hiện tại còn
được hưởng 5 lợi ích :
1). Cùng khí phần chư
Phật giao tiếp, nối nắm tuệ mạng chư Phật nên ma quỷ xa lìa, thánh đạo tăng
trưởng, nối thịnh Phật chủng.
2). Oai lực của giới đức
khiến chánh kiến phân minh, nội tâm vững vàng, không bị những thống khổ lúc lâm
chung khủng bố, định tuệ tự tại an lạc.
3). Tăng thượng duyên vô
cùng trọng yếu là pháp lữ hiền thiện để cùng tiến bước trên đường Vô-thượng
Bồ-đề.
4). Giới phẩm trọn vẹn,
công đức đầy đủ.
5). Xứng tánh khởi tu,
phước đức do trí tuệ được viên mãn. Toàn tu hiển tánh, tuệ nhờ phước đức được
viên minh.
Bộ
Hợp Chú : Tánh giới tức chánh
nhân lý thể, chính là pháp thân đức. Nghiêm trì giới tướng tức duyên nhân phước
thiện, chính là giải thoát đức. Ngộ tánh của giới tức là liễu nhân trí tuệ.
Chính là Bát Nhã đức.
Thọ giới này là vào hàng
chư Phật.
KHUYÊN
QUÁN GIỚI THỂ.
Bổn nguyên tâm địa thuộc trung đạo liễu nghĩa, không lý luận. Nên phàm phu chấp
tướng dĩ nhiên không thể được diệu giới pháp này. Nhị thừa thủ chứng Niết-bàn,
diệt thọ chấp không. Dĩ nhiên cũng không gieo giống được.
Bổn nguyên tâm địa,
chúng sanh và Phật bình đẳng. Đúng lý phàm phu và nhị thừa đều có thể tín thọ
gieo giống. Sở dĩ họ vô phần vì không biết quán thật tướng.
Muốn nẩy mầm Bồ-đề phải
quan sát các pháp tánh không tịch. Vô tướng nên gọi là thật tướng tức là tâm
thể bổn nguyên viên mãn thanh tịnh.
Cần trang nghiêm tâm địa
bằng 2 phương tiện :
a/. Quan sát thuộc về lý
gọi là trí tuệ trang nghiêm.
b/. Trì giới thuộc về
sự, gọi là công đức trang nghiêm. Phải cần song song lý sự. Như người rửa tay,
đồng thời cả hai, kỳ cọ lẫn nhau cùng sạch, không cái nào trước cái nào sau.
Tuệ giải và diệu hạnh, Bồ-tát tuần tự như pháp khéo học tập mới có thể chân
thật tương ưng.
Kệ rằng : Nơi học nơi vô
học,
Chớ mống tưởng phân
biệt.
Toàn tánh khởi tu là vô
học mà luôn học. Toàn tu tại tánh là luôn học mà vẫn vô học. Đạt thật tướng
chân tánh nên trong nhất tâm đủ cả vạn hạnh.
Nghĩa là nếu động niệm
phân biệt tức thuộc về tác dụng hoạt động hữu vi của tâm thức. Không phải là
Bát Nhã chân trí vô phân biệt thì làm sao vào trung đạo đệ nhất nghĩa đế (đây
là đệ nhất đạo) để khỏi bị lạc về nhị thừa (cũng gọi pháp đại thừa). Nên biết
đây là xứng tánh tu học nên học với vô học như chim bay trong hư không, làm gì
có dấu vết để kiếm tìm.
Quán chiếu Bát Nhã dùng
trí vô phân biệt chiếu lý cảnh giới. Đây là thật trí y thật tướng. Như trong
kinh Lăng Nghiêm, đức Quán Thế Âm phản văn, nghe (thủy giác) tánh nghe (bổn
giác) gỡ 6 kết giải 5 ấm (hết thảy lỗi hý luận đều từ đây dứt sạch), chứng tịch
diệt.
Tịch diệt hiện tiền là
cảnh giới căn bản trí (vô thượng trí của Phật chỉ do đây mà thành).
KHUYẾN HỘ GIỚI TƯỚNG
“Vì thế nên Phật tử phải
phát tâm dõng mãnh, nghiêm trì giới của Phật tròn sạch như minh châu”. Nhờ sự
trì với tâm trí sáng suốt, phát tuệ đạt tánh thể thành lý trì.
Lư Xá Na có 3 nghĩa :
khiết tịnh, viên mãn, quang minh. Nay Phật tử hộ trì kim cương quang minh bảo
giới trong tâm địa. Bộ Pháp Ẩn giải thích 3 nghĩa như sau :
1. Khiết tịnh, sạch hết
ác pháp, thuộc nhiếp luật nghi giới.
2. Viên mãn tất cả thiện
pháp, thuộc nhiếp thiện pháp giới.
3. Quang minh soi khắp
chúng sanh, thuộc nhiếp chúng sanh giới.
HỒI
HƯỚNG : Thích Ca Mâu Ni Phật
tùy thuận chư Phật, giảng tâm địa đại giới cho chúng sanh đồng được nhất thiết
chủng trí.
Học giả đại thừa trước
hết phát Bồ-đề tâm, thọ Bồ-tát giới.
Bồ-tát giới là con đường
tối yếu của chư Phật cho nên chư Phật đồng tuyên dương. Bồ-tát giới là nghiêm
sư của các thánh hiền nên các thánh hiền cùng thực hành.
Bố
tát :
trưởng tịnh. Trưởng :
Nuôi lớn thiện căn. Tịnh : Rửa sạch nghiệp chướng. Cứ mỗi nửa tháng,
những ai đã thọ Bồ-tát giới phải tụng giới bổn, để tự kiểm điểm. Hễ có sơ sót
phải sám hối. Bất luận xuất gia tại gia đều phải tuân hành.
Pháp sư nguyện mong tất
cả Phật tử, hiện diện và không hiện diện, đều hết sức cố gắng và cố gắng.
BỒ TÁT KIM CANG BẢO GIỚI
Là chánh hạnh bất khả
phân ly suốt dọc con đường Bồ-đề.
Thập
Tín : 10 ngôi tu tập để viên
mãn chánh tín.
Thập
Trụ : tu tập để hoàn toàn
sống với Phật tánh.
Thập
Hạnh : tu tập thực hiện diệu
dụng của tánh Phật.
Thập
Hồi Hướng :
chuyển vạn hạnh hướng về Bồ-đề, chân như và chúng sanh.
Bốn
gia hạnh : vào trung đạo giữa Tâm
và Phật.
Thập
Địa : mỗi ngôi chứng một phần
Pháp-thân, 10 ngôi hoàn mãn thánh quả.
Đẳng
giác : thủy giác và bản giác
hợp nhất.
Diệu
giác : cùng huyền, cực diệu,
không thể nghĩ bàn, thành vô thượng đạo.
PHẠM VÕNG
Con đường thành Phật dài
xa, đức Phật đã vạch rõ bản đồ trong kinh Hoa Nghiêm. Kinh Phật mỗi thứ nói về
một chi tiết nhưng thành nghĩa cho nhau. Như rèm lưới cửa cung Phạm Thiên
Vương. Mỗi mắt lưới một hạt châu. Vô lượng ánh sáng giao nhau. Toàn thể là hình
ảnh sự nghiệp giáo hóa của đức Phật tại cõi Ta Bà. Cho nên Phật tử thệ nguyện
học vô lượng pháp môn mà thật ra chỉ học về chân tâm bản tánh của mình.
Học tâm tánh bản gốc,
lại nghiên cứu pháp tánh tùy duyên mới vào thật giáo viên dung. Pháp tướng tông
(Duy thức) riêng vụ về tùy duyên. Vô tướng tông Bát nhã) riêng vụ
về bất biến. Hai môn song dung vô ngại là tùy thuận viên dung pháp tánh.
Kinh nói thí dụ sẩm sờ
voi. Người mới học của mỗi tông chẳng thể thấy cả con voi (thật tướng).
Nhưng cũng không thể rời chỗ tay sờ mà tìm được voi. Mỗi tông chỗ lập pháp đều
hợp thánh lý. Hiếp tôn giả nói : “Y đây tu hành chẳng ai không lợi ích”. Nếu cứ
quyết định con voi là cái quạt mà phỉ báng chê bai những ai tin con voi là cái
cột tức đọa thiên kiến. Chẳng những tự chuốc quả báo hiểm nguy mà cũng kinh
Bách Dụ kể chuyện : Thầy lâm bệnh, phân công cho đệ tử A xoa bóp chân phải, đệ
tử B xoa bóp chân trái. Kề cận bên nhau, nhỏ to trò chuyện. Mỗi lần A tỏ ý phản
đối B thì đấm chân trái một cái. B phát cáu, đấm chân phải trả thù. Kết cuộc
đôi bên đều hả dạ, chỉ có ông thầày bị gẫy cả hai chân.
Nếu chỉ khuôn theo sở
thích định kiến của riêng mình mà đả kích, đập cho bằng gẫy pháp môn tu của
người khác, thì ngôi Tam-bảo thật khó đứng vững.
Vì thế bước đầu vào đạo
Phật phải qua thập Tín. Rồi mới tam Hiền (10 Trụ + 10 Hạnh + 10 Hồi Hướng),
thập Thánh (10 Địa). Tam Hiền thập Thánh là chương trình tu học thật sự.
Như các lớp đại học thế gian. Còn thập Tín là lớp bổ túc, sửa soạn chuẩn bị để
đủ tư cách làm học trò. Trong nhà đạo, sơ tâm Bồ-tát phải học hỏi nghiên cùng
mới hy vọng sáng tỏ trừ nghi để thành chánh tín. Dùng 10 thậm thâm quán pháp
chiếu soi chân đế, tục đế. Hiểu rõ tin sâu là khả năng sanh nhân quả Phật.
Tin hiểu cái gì ? Tin
Phật thường trụ ở khắp mười phương viên dung vạn pháp. Tin mình có Phật tánh.
Thật tướng vốn đồng. Hai chữ “ở khắp” có nghĩa tổng biến và viên biến. Tổng
khắp như quần sao trên bầu trời (hóa thân). Viên biến như hương thơm hòa
ngát hư không (pháp thân). Mỗi sự tức khắp vô biên mà chẳng hoại bản
tướng như ánh sáng mặt trời ở khắp không gian mà một hình tròn vẫn rõ hiện.
Thí dụ : đèn chiếu sáng.
Thầy giáo giảng. Học trò thấy chữ, nghe giảng, hiểu nghĩa. Cả 3 sự việc viên
dung trong tâm địa học trò. Cái viên dung vô ngại này thành sự sinh hoạt hàng
ngày của sáu căn. Tâm địa mỗi người là tánh giác vốn vẫn thường trụ ở khắp pháp
giới. Bồ-tát thập Tín cần biện rõ lý bình đẳng tuyệt tướng (Như Lai Tạng
diệu chân như tánh) mà không hoại những sự tướng thế gian (viên dung).
Biết sự gọi là Tri. Biết
lý gọi là Ngộ. Đối với bậc lý sự đã vô ngại thì tri và ngộ không hai. Mỗi thấy
nghe đều là Văn Thù (căn bản trí). Mỗi cử động đều là hạnh Phổ Hiền (hậu
đắc trí).
Thập Tín là bước đầu để
đi lên, là căn bản các thánh vị. Thân có chỗ đứng là nhờ bàn chân. Bước đầu đã
đúng thì cứ thế mà đến nơi đến chốn.
Dù tự lợi hay lợi tha,
trước hết phải cầu minh đạt. Chỉ cần mở mắt ra, tìm hiểu giáo lý. Biết đường và
đi đúng đường là điều kiện thiết yếu. Đạo Phật là con đường giác tỉnh, đưa đến
vô thượng chánh giác. Ngôi nào cũng phải nhờ trí tuệ dẫn đường. Kim Cương Bảo
Giới là chánh hạnh. Trí tuệ là trợ đạo. Nương đèn chánh giáo, văn tuệ khai minh
giải. Tu tuệ sanh chân trí. Giọt nước mong manh, với sức tiếp tục lâu dài, sẽ
có khả năng làm thủng đá.
Phật tử có vị giải
thoát, có vị sanh thiên, có người đọa lạc. Phật phước điền bình đẳng. Chỉ vì
chí nguyện khác nhau mà quả báo khác nhau. Nguyện dẫn đường tu như mắt dẫn thân
đi. Không nguyện nào quý hơn nguyện thành Phật. Đây là nhân thù thắng. Tam tạng
giáo lý là thuốc trị tất cả độc, là mặt trời chiếu khắp, là duyên thù thắng. Đủ
nhân duyên tốt đẹp như thế, ta hãy nỗ lực trân trọng học tập.
Phật giác ngộ một pháp
duy nhất là Như Lai Tạng diệu chân như tánh. Bồ-tát không định, không thể có
tuệ. Muốn định, tâm phải trụ một cảnh. Tâm phải rót một cảnh mới năng nhập lý.
Nhưng kinh lại dạy : “Trong cánh đồng mông mênh những sanh cùng tử này, có cây
Bồ-đề thọ vương. Nếu không có nước đại bi tưới gốc rễ chúng sanh thì không bao
giờ nở hoa Bồ-tát để kết quả Phật. Cho nên Bồ-đề thuộc về chúng sanh. Tất cả
các Bồ-tát phải biết nghĩa này”. Như vậy thì tâm bắt buộc phải đối vô lượng
cảnh. Bồ-tát kiếp này sang kiếp khác, hân hoan trong sự nghiệp đem huyễn pháp
thức tỉnh huyễn chúng sanh trở về sống với Phật tánh kim cương bất hoại của
mình.
Muốn thật lòng tinh tấn
tu công đức Phật, tân học Bồ-tát phải dùng 4 niệm xứ, khai tuệ vô ngã, vô pháp.
Biết tất cả tướng vô tướng, sanh vô sanh. Tâm cảnh cùng vong, trụ vô phân biệt
mới mong nhập pháp tánh. Tam luân không tịch mà hằng giáo hóa. Trí Bi thành
nhau. Biết như thế, tin hiểu thâm sâu thật nghĩa, Bồ-tát khởi hạnh chứng chân,
trước sau đều thật.
Trong hộ nội tâm tránh
các nhân duyên xấu, kết hợp các nhân duyên lành. Ngoài xả thân hộ pháp. Vì ngôi
Tam-bảo là cửa giải thoát duy nhất của muôn loài.
--- o0o ---
0 nhận xét:
Đăng nhận xét