Thiền, ý nghĩa đích thực của nó là
thấy rõ những gì đang diễn ra trên thân, tâm và làm ngưng lắng hết thảy
vọng tưởng nơi tâm, để cho thân cũng như ngữ không còn bị điều động
bởi những thế lực vọng tưởng ấy và khiến cho tâm hoàn toàn an tịnh.
Người
tu tập thiền là người tập thấy rõ thân thể và làm chủ mọi động tác của
mình một cách có ý thức, và đưa ý thức đi kèm với mọi động tác ấy,
khiến cho người thiền tập thấy rõ mọi động tác ấy, nó đúng như là.
Người
tu tập thiền là người tập thấy rõ và theo dõi các cảm thọ đang diễn ra
trên thân và tâm, và là người có ý thức rõ ràng, chính xác về những gì
xảy ra trên thân và tâm do các cảm thọ ấy đem lại.
Người
tu tập thiền là người tập thấy rõ tâm mình, tập làm cho tâm mình ngưng
lắng hết thảy vọng tưởng, hết thảy chấp thủ về tham ái, về giận dữ, về
ngu muội, về kiêu mạn, về nghi hoặc và tà kiến.
Người tu tập thiền là người tập thấy rõ bản thân mình là một tập hợp gồm có sắc và tâm, hay gồm có các yếu tố vật lý và tâm lý.
Trong
các yếu tố vật lý và tâm lý ấy, không có yếu tố nào được mệnh danh là
“Ngã”. Chúng hiện hữu trong sự tương quan và tương sinh, sắc ấy là tâm,
tâm ấy là sắc, sắc có mặt trong tâm và tâm có mặt trong sắc. Hết thảy
chúng hữu tình từ Dục giới cho đến Sắc giới đều là như vậy cả.
Người
tu tập thiền là người tập thấy rõ bản thân là một tập hợp giữa sắc và
tâm, chúng hoàn toàn không có tự tính thực hữu, nên tâm của vị ấy ngưng
lắng mọi vọng tưởng về ngã.
Người tu tập thiền không những
là người tập thấy rõ thân mình là một tập hợp giữa tâm và vật, giữa tâm
pháp và sắc pháp, mà còn thấy rõ vạn pháp, không có pháp nào hiện hữu
đơn điệu, trong một pháp liên hệ đến vạn pháp, trong vạn pháp liên hệ
đến một pháp, vạn pháp đang có mặt trong một pháp và trong một pháp
đang có mặt hết thảy vạn pháp.
Người tu tập thiền là người tập thấy rõ, trong đất có các cực vi, trong các cực vi có nước, có lửa, có không khí và ngược lại.
Người
tu tập thiền là người tập thấy rõ bàn tay, thấy rõ trong bàn tay là
một tập hợp của các cực vi, của hơi ấm, của thể lỏng, của không khí,
của không gian, của thời gian, của tâm thức, và tập nhìn rõ hết thảy
các yếu tố trong thân thể cũng đều như vậy.
Người
tu tập thiền là người tập nhìn thấy rõ bông hoa là một tập hợp của âm
và dương, của mặt trời và mặt trăng, của đất, của nước, của hơi ấm, của
không khí, của chủng tử chính nó, của hết thảy mọi thời gian và không
gian.
Người tu tập thiền do thấy
rõ bản thân của vạn pháp là như vậy, nên tâm chấp thủ pháp không còn
tác khởi, tâm vọng tưởng về tính thực hữu của một pháp hoàn toàn vắng
lặng.
Ở nơi tâm của người thiền
tập đã vắng lặng hoàn toàn các vọng tưởng về tính thực hữu của ngã và
pháp. Nghĩa là không còn bị “ngã” và “pháp” làm chướng ngại, nên đối
với tất cả thiền định, không có loại thiền định nào mà vị ấy không
thành tựu, đối với tất cả tuệ quán, không có loại tuệ quán nào mà vị ấy
không minh triết, vị ấy tự tại đối với năm uẩn, mười hai xứ, mười tám
giới. Và hết thảy phép lạ đều tùy thuận theo tâm ý của vị ấy mà biểu
hiện. Vị ấy có thể làm lữ khách “rong chơi” giữa đôi bờ sinh tử, hay đi
gió về mây, hoặc đưa tay đùa chạm mặt trăng, mặt trời, hoặc ngụm một
ngụm là sạch hết nước cả bốn đại dương, cất một bước là chuyển động hết
thảy sơn hà, đại địa, hay hét một tiếng là rợn lạnh cả hư vô.
Thiền
không phải là lý thuyết mà là thực nghiệm, không phải là dự tưởng mà
là hiện thực, không phải tỷ giảo mà là trực giác, không phải là gián
tiếp mà là trực diện, không phải là phiến diện mà là toàn thể, không
phải để rao giảng hay quảng cáo mà lặng lẽ hành trì, nên thiền là con
đường tự tri, tự chứng, tự giác liễu.
Người
hành trì thiền và sống đời sống của thiền không phải là người cố chấp
hay phá chấp. Vì giữa đời này có cái gì kiên cố đâu mà cố chấp, và cũng
chẳng có cái gì kiên cố đâu mà phá chấp. Nên, cố chấp và phá chấp là
hai hành động hoàn toàn vô nghĩa đối với Phật giáo đã đành, mà còn hoàn
toàn vô nghĩa đối với đời sống của thiền.
Người
hành trì thiền không phải là người cố chấp hay phá chấp, mà là người
có cách nhìn và cách ứng xử sinh động để thấy rõ tự thân của thực tại
và những gì đang diễn ra trong đời sống của chính họ và chung quanh họ
là đúng như chính nó.
Thiền là
vậy, nên thiền là thực tiễn, sinh động và sâu lắng. Thiền từ chối hết
thảy mọi định nghĩa bắt chụp lên nó. Vì sao? Vì nghĩa đã định là nghĩa
chết, mà thiền không phải là chết, thiền là có ý thức rõ về sự sống và
sự chết để mà sống và chết có tự do, sống và chết với những gì không
còn lo âu và sợ hãi; sống thanh thản, vững vàng như bước đi của voi
chúa xung trận và chết là trở về với cõi sống trầm mặc, nguyên sơ.
Thiền
là vậy, nên thiền không có hạn chế bởi không gian và thời gian. Đời
sống của thiền giản dị không có phương sở. Mọi ý niệm về phương sở
không thể bắt chụp lên đời sống của thiền, nếu thiền bị bắt chụp để
nhốt vào phương sở, thì thiền đó là thiền chết, chết đi những sinh chất
của sự sống và trở nên phiền toái, sương mù.
Trong
tất cả mọi sự trung thành đối với đời sống của thiền, không có sự
trung thành nào hơn là chánh niệm, và trong tất cả mọi sự phản bội đối
với thiền, không có gì hơn là thất niệm, là vọng niệm, là hướng ngoại
tìm cầu. Những thứ ngôn ngữ mà các thiền sư đang sử dụng để diễn tả về
thiền ở các thiền viện đã làm dơ bẩn đời sống của thiền và đã phản bội
đời sống của thiền một cách trắng trợn.
Trong
tất cả mọi sự kính ngưỡng đối với đời sống của thiền, không có sự kính
ngưỡng nào hơn là các “thiền phái”, và trong tất cả mọi sự xúc phạm
đối với thiền, thì cũng không có ai khác hơn là chính các “thiền phái”.
Vì sao? Vì đã là đời sống của
thiền thì không có phái, không có môn; hễ có môn, có phái là không phải
thiền, không phải là đời sống đích thực của thiền. Thiền là đời sống
tĩnh tại mà xuyên suốt, giản dị mà sâu hút, nhất điểm mà toàn thể.
Trong
kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm, những gì cần thiết để tu tập về thiền và
để sống thiền, đức Phật đã dạy rõ - và Ngài đã dạy rõ hơn - thế nào là
thấy rõ mọi hành xử về thân - thế nào là thấy rõ về các cảm thọ - thế
nào là thấy rõ về các chủng tử tâm hành - thế nào là thấy rõ về nội
pháp và ngoại pháp và kết quả do sự thấy rõ thường trực bốn lãnh vực ấy
đem lại. Tuy Kinh đề cập đến bốn lãnh vực của thiền quán, nhưng ta thực
tập thiền quán nhuần nhuyễn một lãnh vực, thì ba lãnh vực còn lại cũng
trở nên nhuần nhuyễn với ta, bởi lẽ bốn lãnh vực ấy là bốn lãnh vực có
mặt trong nhau và đều không có tự thể.
Do
đó, Kinh này là kinh căn bản của sự tu tập thiền định, của đời sống
thiền định, và căn bản của mọi sự thiền tập là ở đây. Như Lai thiền
định là ở đây; Bồ-tát thiền định là ở đây; Thanh Văn thiền định là ở
đây. Ở đây mà không bị lay động bởi năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới;
không bị lay động bởi Ngã và Pháp. Ở đây mà sâu rộng và vô biên. Ở đây
mà thể nhập thể tính tịch diệt ngay nơi mọi sự sinh diệt của vạn hữu. Ở
đây mà hiện chứng Niết-bàn Vô dư, Niết-bàn Vô trú và Niết-bàn tịch
tịnh… nên tự thân của Kinh không hề bị mắc kẹt bởi một trường phái nào
trong Phật giáo hay một môn phái nào của Thiền.
Thực
tập theo Kinh này là thực tập để thấy rõ những gì đang diễn ra trên
thân tâm của chính mình, và làm ngưng lắng những gì cần phải ngưng lắng
ấy, để tâm luôn luôn ở trong trạng thái an tịnh, bình lặng, thuần
nhất, vô nhiễm, hoàn toàn trong sáng và ở trong nhất điểm mà toàn thể.
Ở
trong trạng thái bình lặng, vô nhiễm, trong sáng, nhất điểm mà toàn
thể ấy chỉ cần một ý niệm về nhân ngã khởi lên là tức khắc đời sống của
thiền bị phản bội và thực tại bị cắt xén!
Thích Thái Hòa-trich trathomonline