Tính Thực Dụng Của Kinh TỨ NIỆM XỨ trong Cuộc Sống
Khi
nói về Thiền, những hành giả chân chánh không sao có thể bỏ qua bài kinh Tứ niệm
xứ mà Phật đã từng dạy cho hàng đệ tử khi ngài còn tại thế.
Và đó cũng là ngưỡng
cửa mà một hành giả phải bước qua trước khi thực chứng vào cảnh giới tịch tỉnh
của Niết bàn. Để khẳng định giá trị của kinh tứ niệm xứ trên lộ trình giải
thoát Đức Phật đã khẳng định rằng: “Này
các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt
khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Đó là Bốn
Niệm xứ”. *Đó
là con đường gần gũi trong cuộc sống của chúng ta, không quá mơ hồ hay trừu tượng
mà là thiết thực ngay trong hiện đời này, đó là Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Đây
là 4 đối tượng cần được giác tri, rõ biết ngay đây và trong kiếp này.
Xét
về phương diện thực tập thì Tứ niệm xứ không phải quá khó cho những ai muốn tắm
mình trong dòng suối an tịnh của giáo pháp, chỉ có 4 đối tượng để một hành giả
trú tâm trên ấy, đó là Thân, Thọ, Tâm và Pháp. Xét về nội dung thì thật phong
phú, giàu có để thích ứng với từng căn tánh của hành giả trong khi tu tập.
Đức
Thế Tôn dạy: “Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo,
ở đây Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế
ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm
để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh
niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.”
Con
người được tạo bởi 2 phần là Danh và Sắc, vì thế chư Tổ sư thường dạy nếu rời
thân ngũ uẩn này để tìm giác ngộ thì thật không thể được. Ngược lại chúng ta phải
biết nương tựa nơi “hải đảo tự thân” để tu tập, tức là thân ngũ uẩn này vậy. Đối
tượng tu tập trong kinh Niệm Xứ tuy chỉ có Thân, Thọ, Tâm và Pháp nhưng giàu có
vô cùng. Từ 4 đề mục này mà khai thác
sâu vào thế nào một hành giả nhiệt tâm cũng tìm thấy của báu cho mình. Từ bài
kinh này có người lại chuyên sâu về quán Thân, có người quán Thọ, có người quán
Tâm và có người thì quán Pháp
Quán
Thân, Thọ, Tâm, Pháp là thế nào?
·
Quán
thân: Đề mục này gồm có 6 phương pháp quán
niệm: quán hơi thở, quán các oai nghi, quán các hành tướng của thân, quán các
thân phần, quán vị trí các giới trên thân và quán thi thể.
Trong
bối cảnh xã hội ngày nay, đặc biệt là xã hội Tây phương, sự vội vàng trong cuộc
sống đã là một vòng xoáy làm cho con người trở nên căng thẳng, bất an và có khi
tệ hại hơn là đưa đẩy con người vào con đường tự vẫn vì không tìm được lối
thoát cho chính bản thân mình. Trước tình trạng đó các nhà tâm lý trị liệu đã sớm
bắt tay vào nghiên cứu và áp dụng Thiền vào cho các bệnh nhân và khuyến cáo mọi
người thực tập thiền trong đời sống thường nhật, mục đích là để giảm Stress,
làm quân bình trong cuộc sống của chính họ. Đối với những trường hợp này họ chỉ
áp dụng chủ yếu vào quán Thân và Thọ mà thôi. Điều này nói lên sự thiết yếu của
những gì Phật dạy trong bài kinh Niệm Xứ này, tùy theo mục đích, mong muốn mà
con người có thể khai thác “tài nguyên”
trong kinh tùy theo trình độ của mình.
Con
người thường dễ buông xuôi cho vận mệnh, nhất là khi gặp khó khăn thì lại bi
quan, chán chường mặc cho dòng chảy cuộc đời đưa đẩy. Nói theo cách của Nguyễn
Du là: “cũng đành nhắm mắt xuôi tay, mặc
cho con tạo xoay vần đến đâu” là ý này vậy.
Riêng
quán hơi thở thì kinh “ An ban thủ ý” lại chia ra 16 hơi thở, mỗi 4 hơi thở lại
tương ưng với 4 đề tài của kinh Niệm xứ này. Hầu hết trong sự tu tập, các hành
giả đều lấy hơi thở làm công phu cho chính mình, khi hơi thở có chánh niệm thì
phẩm chất của hơi thở được cải thiện rất nhiều, cũng từ đây thể chất của hành giả
cũng thấy có sự biến đổi rất nhiều về sắc diện cũng như sự khinh an. Hơi thở
như một nhịp cầu nối liền giữa thân và tâm, đưa thân và tâm trở về trạng thái
nhứt như của niệm và định. Chính vì thế mà đối với những hành giả khi khởi sự
thiền tập đều được dạy quán sổ tức hoặc tùy tức để chế ngự sự loạn động của tâm.
Đoạn kinh sau thyết minh cho điều ấy:
“Này các
Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống,
và ngồi kiết già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Tỉnh giác, vị ấy
thở vô; tỉnh giác, vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở vô
dài"; hay thở ra dài, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở ra dài"; hay thở
vô ngắn, vị ấy tuệ tri: "Tôi thở vô ngắn"; hay thở ra ngắn, vị ấy tuệ
tri: "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở
vô", vị ấy tập; "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập;
"An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "An tịnh toàn
thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Này các Tỷ-kheo, như người thợ quay hay học
trò người thợ quay thiện xảo khi quay dài, tuệ tri: "Tôi quay dài"
hay khi quay ngắn, tuệ tri: "Tôi quay ngắn". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo thở vô dài, tuệ tri: "Tôi thở vô dài"; hay thở ra dài, tuệ
tri: "Tôi thở ra dài"; hay thở vô ngắn, tuệ tri: "Tôi thở vô ngắn";
hay thở ra ngắn, tuệ tri: "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác toàn
thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập; "Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở
ra", vị ấy tập; "An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập;
"An tịnh toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập; Như vậy, vị ấy sống
quán thân trên nội thân hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân
trên cả nội thân, ngoại thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay
sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân.
"Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến
chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời.
Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.”
Với
phương pháp quán niệm hơi thở như trên, khi thực tập nhuần nhuyễn chúng ta có
thể chuyển đổi được những cảm xúc từ tiêu cực thành tích cực. Khi có một cảm thọ
bất an, một người khéo tu tập họ sẽ biết trở về với hơi thở chánh niệm, họ an
trú trong hơi thở, theo giỏi hơi thở vào ra một cách chú tâm, thực tập như vậy
khoảng chừng trong vài phút thì những cảm thọ khó chịu sẽ lắng dịu dần. cánh
quán niệm hơi thở này ta thấy liên quan đến phần cảm thọ, điều này cho thấy giữa
Thân và Thọ có sự tương quan mật thiết với nhau. Dĩ nhiên thì lĩnh vực Tâm và
Pháp cũng không nằm ngoài sự tương quan này.
Trong
luận Chỉ Quán, ngài Trí Giả Đại sư cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của “hơi thở”,
đó là phương tiện để tu chỉ có kết quả nhanh nhất. Luận nói: “nếu điều khiển
cái tâm được tinh tế, khiến cho hơi thở ở trạng thái nhỏ nhiệm, hơi thở được điều
hòa thì các bệnh chẳng sanh, tâm của hành giả dễ được an tịnh”(trích trong Tu Tập
Chỉ Quán Tọa Thiền Pháp Yếu- Hòa Thượng Thích Hoàn Quang dịch, trang 76). Chính
vì giá trị to lớn ấy mà có một bài kinh Phật chỉ bàn thuần về hơi thở. Đó là
kinh “An Ban Thủ Ý”, trong kinh này Phật dạy 16 hơi thở tương thích với 4 đề mục
của kinh Niệm Xứ. Điều này cho thấy giữa thân và tâm cần bắt một nhịp cầu và nhịp cấu đó không gì khác chính là “hơi thở”. Với
chừng này thôi, các nhà tâm lý trị liệu Tây phương đã áp dụng khá thành công
vào công việc điều trị cho những bệnh nhân stress của họ. Những nạn nhân tự tử
là do trong một khoảnh khắc nào đó họ bị bế tắt để cho tâm trạng rơi vào tuyệt
vọng và họ coi như không còn lối thoát, với họ lúc này chỉ có “chết” là thượng
sách. Nhưng nếu họ là những người đã từng thực tập về cách thở có chánh niệm
thì ngay lúc đó họ lập tức thiết lập hơi thở có ý thức và để ý đến sự phồng xệp
của vùng bụng khi thở thì chắc chắn họ sẽ thoát được cảm xúc ngột ngạt như thể
không chịu nổi ấy vài phút sau đó, và dĩ nhiên là cái “chết” sẽ không đến với họ.
Có người ví cảm xúc như một trận cuồng phong và sẽ quét đi những cây yếu ớt khi
nó đi qua, nhưng với những cây cổ thụ thì không sao lay chuyển được. Cũng vậy,
hơi thở có chánh niệm cũng giống như cây cổ thụ kia, khi giông tố đến, hơi thở
được trụ nơi đan điền một cách chánh niệm thị cơn bảo cảm xúc kia không sao có
thể phá hoại ta được. Khi làm việc liên tục hoặc căng thẳng một vấn đề gì,
chúng ta chỉ cần nằm xuống và thả lỏng toàn bộ cơ thể, để ý hơi thở vào và ra,
làm như vậy liên tục 5 đến 10 phút thì sự căng thẳng kia sẽ không còn nữa, có
khi ta thíp vào giấc ngủ lúc nào cũng không hay.
Đề
mục quán thân này gồm có 6 phương pháp quán niệm, với phương pháp quán niệm hơi thở giúp ta bước đầu
đều hòa được thân tâm, quân bình lại trong cuộc sống. Năm phương pháp còn lại
giúp ta cảm nhận và hiểu sâu sắc hơn về cơ thể ngũ uẩn của mình để từ đó đoạn
trừ lòng ham muốn và chấp thủ của mình. Đoạn kinh sau đây Đức Phật nói đến sự bất
tịnh của một cơ thể mà chúng ta cần biết để phá bỏ lòng tham ái về sắc thân ngũ
uẩn của mình và người:
“Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát
thân này, dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa
đầy những vật bất tịnh sai biệt. Trong thân này: "đây là tóc, lông, móng,
răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi,
ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm (niêm dịch), mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt,
mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu". Này các Tỷ-kheo,
cũng như một bao đồ, hai đầu trống đựng đầy các loại hột như gạo, lúa, đậu
xanh, đậu lớn, mè, gạo đã xay rồi. Một người có mắt, đổ các hột ấy ra và quán
sát: "Đây là hột gạo, đây là hột lúa, đây là đậu xanh, đây là đậu lớn, đây
là mè, đây là hột lúa đã xay rồi". Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo
quán sát thân này dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi
da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt. Trong thân này: "đây là tóc,
lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá
lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt,
mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu". Như vậy, vị ấy
sống quán thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân, hay sống quán
thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân;
hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân.
"Có thân đây", vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến
chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật
gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.”
… “Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa một ngày, hai ngày, ba
ngày, thi thể ấy trương phồng lên, xanh đen lại, nát thối ra. Tỷ-kheo quán thân
ấy như sau: "Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt
khỏi tánh chất ấy". Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống
quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị
ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân;
hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú
chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống
không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy
là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, bị các loài quạ ăn,
hay bị các loài diều hâu ăn, hay bị các chim kên ăn, hay bị các loài chó ăn,
hay bị các loài giả can ăn, hay bị các loài côn trùng ăn. Tỷ-kheo quán thân ấy
như sau: "Thân này tánh chất là như vậy, bản chất là như vậy, không vượt
khỏi tánh chất ấy". Như vậy vị ấy sống quán thân trên nội thân; hay sống
quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên nội thân, ngoại thân. Hay vị
ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân;
hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có thân đây", vị ấy an trú
chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống
không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy
là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.
Này các Tỷ-kheo, lại nữa,
Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, với các bộ xương còn
liên kết với nhau, còn dính thịt và máu, còn được các đường gân cột lại... với
các bộ xương còn liên kết với nhau, không còn dính thịt nhưng còn dính máu, còn
được các đường gân cột lại... với các bộ xương không còn dính thịt, dính máu,
còn được các đường gân cột lại, chỉ còn có xương không dính lại với nhau, rải
rác chỗ này chỗ kia. Ở đây là xương tay, ở đây là xương chân, ở đây là xương ống,
ở đây là xương bắp vế, ở đây là xương mông, ở đây là xương sống, ở đây là xương
đầu. Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: "Thân này tánh chất là như vậy, bản
tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy". Như vậy, vị ấy sống quán
thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên
nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay vị ấy sống
quán tánh diệt tận trên thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh diệt trên thân.
"Có thân đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng
đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một
vật gì ở trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên
thân.
Lại nữa này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo như thấy một thi thể bị quăng bỏ trong nghĩa địa, chỉ còn toàn xương trắng
màu vỏ ốc... chỉ còn một đống xương lâu hơn ba năm... chỉ còn là xương thối trở
thành bột. Tỷ-kheo quán thân ấy như sau: "Thân này tánh chất là như vậy, bản
tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy". Như vậy vị ấy sống quán
thân trên nội thân; hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên
nội thân, ngoại thân. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống
quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. "Có
thân đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến
chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật
gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.”
·
Quán
thọ: Thọ là những trạng thái của tâm, gồm có
Lạc Thọ, Khổ Thọ và Xả Thọ. Con người phần lớn không làm chủ
hết cảm thọ của mình, để cho niềm vui, nổi buồn len lỏi vào tâm rồi sai xử
chúng ta hành động theo tâm trạng đó. Cụ Nguễn Du diễn tả sự không làm chủ đó
như sau:
“Chơi cho cỏ chán hoa
chê
Cho lăn lóc đá, cho mê
mẫn đời”
Khi
một hành giả sống chánh niệm thì các cảm thọ đều được quản lý khiến những năng
lượng tiêu cực không có cơ hội phát sanh, vì thế họ luôn được nuôi dưỡng trong
sự bình an của tâm thức. Đức Phật dạy:
“Này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo sống
quán thọ trên các thọ? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo khi cảm giác lạc thọ, tuệ
tri: "Tôi cảm giác lạc thọ"; khi cảm giác khổ thọ, tuệ tri: "Tôi
cảm giác khổ thọ"; khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ, tuệ tri: "Tôi cảm
giác bất khổ bất lạc thọ". Hay khi cảm giác lạc thọ thuộc vật chất, tuệ
tri: "Tôi cảm giác lạc thọ thuộc vật chất"; hay khi cảm giác lạc thọ
không thuộc vật chất, tuệ tri: "Tôi cảm giác lạc thọ không thuộc vật chất".
Hay khi cảm giác khổ thọ thuộc vật chất, tuệ tri: "Tôi cảm giác khổ thọ
thuộc vật chất"; hay khi cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất, tuệ tri: "Tôi
cảm giác khổ thọ không thuộc vật chất". Hay khi cảm giác bất khổ bất lạc
thọ thuộc vật chất, tuệ tri: "Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ thuộc vật
chất"; hay khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất, tuệ tri:
"Tôi cảm giác bất khổ bất lạc thọ không thuộc vật chất". Như vậy, vị ấy
sống quán thọ trên các nội thọ; hay sống quán thọ trên các ngoại thọ; hay sống
quán thọ trên các nội thọ, ngoại thọ. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên
các thọ, hay sống quán tánh diệt tận trên các thọ; hay sống quán tánh sanh diệt
trên các thọ. "Có thọ đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với
hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không
chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống quán thọ
trên các thọ.”
Khi
thực tập niệm Thọ được thuần thục hành giả cũng thấy được bản chất của thọ là
vô thường, vô ngã. Sự có mặt của Thọ là sự hợp thành nhiều yếu tố, có khi là do
ngoại cảnh tác động làm nên, có khi do yếu tố xã hội hoặc học đường, gia
đình.v.v… khi nhìn thấy được nguyên nhân của sự phát sinh cảm thọ, hành giả liền
chuyển hóa được năng lượng bất an của tâm mình.
Như
vậy ta có thể thấy rằng quán niệm thọ cũng là đồng nghĩa với chúng ta đang nhận
diện tâm hành của mình. Thọ là kết quả của thân và tâm. Từ yếu tố vật lý hoặc
tâm lý tác động vào tạo cho ta một trạng thái của lạc thọ hoặc khổ thọ và có
khi cảm thọ đó ở trạng thái vô ký(xả thọ). Vì vậy ta cần phải quán niệm về tâm
của mình.
·
Quán
tâm: theo duy thức học thì tâm chúng ta có đến
51 tâm hành, nhưng nếu nói gọn lại thì có 3, đó là tham, sân và si. Để dễ hơn
trong sự quán niệm thì tâm được phân định thành “ngũ triền cái”, tức là: tham,
sân, trạo cử, hôn trầm và tán loạn. Một hành giả cần phải biết tâm của mình
đang ở trạng thái nào của 5 loại trên. Vì sao ta phải quán tâm? Chư tổ diễn tả
về tâm như sau:
Tam điểm như tinh tượng
Hoành câu tợ nguyệt tà
Phi mao tùng đới giác
Tố phật giả do tha.
Con
người thành bật thánh hiền hay kẻ vô đạo cũng là do tâm thức dẫn dắt mà nên,
vào núi đao hỏa đồ hay thành Phật, Bồ tát cũng do cách dụng tâm trong đời sống
của chúng ta. Trong kinh Pháp cú số 1 và
2- phẩm Song Yếu trình bày:
Tâm dẫn đầu các pháp
Tâm làm chủ, tâm tạo
Nếu với tâm ô nhiễm
Nói lên hay hành động
Khổ não bước theo sau
Như xe, chân vật kéo
Tâm dẫn đầu các pháp
Tâm làm chủ, tâm tạo
Nếu với tâm thanh tịnh
Nói lên hay hành động
An lạc bước theo sau
Như bóng, không rời hình.
Chính
vì sự quyết định ấy của tâm nên mục đích chính của một hành giả tu Phật là quản lý tâm cho chuyên nhất, giống như người lính
giữ thành vậy, không một phút sao lãng. Để điều phục được tâm, Đức Phật đã thiện
xảo hướng dẫn đệ tử mình khéo điều thân trước, như vậy khi quán tâm hành giả dễ
dàng nhận biết được các trạng thái của tâm diễn ra và điều phục được chúng. Đây
là một trình tự đầy thong minh của Đức Thế Tôn, vì rằng tâm tánh của chúng ta rất
ư là diêu động, như ông bà ta thường nói “gian
sơn dễ đổi, bản tánh khó dời”, điều này không quá chút nào, nếu không phải
bậc trí tuệ như Đức Phật thì thật khó lòng chuyển hóa tâm thức của chúng sanh đã nhiều đời “siêng” trồng các
nghiệp xấu. Phật dạy:
“Này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo sống
quán tâm trên tâm? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo, với tâm có tham, tuệ tri:
"Tâm có tham"; hay với tâm không tham, tuệ tri: "Tâm không
tham". Hay với tâm có sân, tuệ tri: "Tâm có sân" hay với tâm
không sân, tuệ tri: "Tâm không sân". Hay với tâm có si, tuệ tri:
"Tâm có si"; hay với tâm không si, tuệ tri: "Tâm không si".
Hay với tâm thâu nhiếp, tuệ tri: "Tâm được thâu nhiếp". Hay với tâm
tán loạn, tuệ tri: "Tâm bị tán loạn". Hay với tâm quảng đại, tuệ tri:
"Tâm được quảng đại"; hay với tâm không quảng đại, tuệ tri: "Tâm
không được quảng đại". Hay với tâm hữu hạn, tuệ tri: "Tâm hữu hạn".
Hay với tâm vô thượng, tuệ tri: "Tâm vô thượng". Hay với tâm có định,
tuệ tri: "Tâm có định"; hay với tâm không định, tuệ tri: "Tâm
không định". Hay với tâm giải thoát, tuệ tri: "Tâm có giải
thoát"; hay với tâm không giải thoát, tuệ tri: "Tâm không giải
thoát".
Như vậy vị ấy sống quán
tâm trên nội tâm; hay sống quán tâm trên ngoại tâm; hay sống quán tâm trên nội
tâm, ngoại tâm. Hay sống quán tánh sanh khởi trên tâm; hay sống quán tánh diệt
tận trên tâm; hay sống quán tánh sanh diệt trên tâm. "Có tâm đây", vị
ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm.
Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo,
như vậy là Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm.”
Khi
sáu căn tiếp xúc với sáu trần con người
thường sanh ra vướng mắc với các pháp trần, từ đó khởi tâm ái luyến và chấp thủ.
Tâm chấp thủ càng mạnh thì đồng nghĩa với vô minh càng lớn. Do đây mà có khổ đau và sinh tử trong ba nẻo sáu đường.
Đối với người đã rõ được nguồn tâm, thấu triệt các pháp thì họ sống như mây như
gió không vướng bận vào pháp trần, không hệ lụy vào thương yêu, được mất.
“Nhạn quá trường
không, ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích
chi ý, thủy vô lưu ảnh chi tâm”
Đó
là thành quả của một quá trình tu tập, thấy được tâm cũng vốn vô thường sinh diệt.
Vì sao? Vì đó là vọng tâm. Những hành tướng của tâm như: tham, sân, hôn trầm,
trạo hối, nghi ngờ và tán loạn là sự sinh khởi khi có điều kiện vào một thời điểm
nào đó mà thôi. Quán niệm Tâm là chỉ đơn thuần nhận biết trạng thái của tâm và
quan sát quá trình sinh và diệt của chúng mà không chạy theo chúng, khi đó hành
giả chỉ đóng vai trò là người quan sát viên mà không phải can thiệp vào sự sinh
diệt của tâm. Trong một bài sám có câu:
Khi sáu căn tiếp xúc sáu trần
Đem ý thức tinh chuyên phòng hộ
Tập khí năm xưa
giờ chuyển hóa
Vườn tâm hoa tuệ
nở xanh tươi.
·
Quán
pháp: Trên đây là trình tự quán niệm của Thân,
Thọ và Tâm, giờ tiếp đến là quán về Pháp. Dĩ nhiên trong khi tu tập một hành giả
phải khéo sử dụng các đề mục sao cho phù hợp với hoàn cảnh và thân tâm của mình mà không phải nhứt nhứt theo thứ tự của
kinh.
Quán
Pháp là quán niệm trên các đội tượng như năm triền cái, năm thủ uẩn, bảy giác
chi, tứ thánh đế, sáu nội xứ. Đây là những pháp giúp một hành giả đi đến liễu
tri các pháp, hay nói theo tinh thần của “tứ diệu đế” thì đây là “đạo đế”- con
đường đi đến “diệt đế”.
Trong chánh kinh Phật dạy
vấn đề này khá rõ ràng:
“Này các
Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp? Này các Tỷ-kheo, ở
đây, Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái. Và này các Tỷ-kheo,
thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái? Này các
Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo nội tâm có ái dục, tuệ tri: "Nội tâm tôi có ái dục";
hay nội tâm không có ái dục, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có ái dục".
Và với ái dục chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với ái dục đã
sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với ái dục đã được đoạn diệt,
tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có sân hận,
tuệ tri: "Nội tâm tôi có sân hận"; hay nội tâm không có sân hận, tuệ
tri: "Nội tâm tôi không có sân hận". Và với sân hận chưa sanh nay
sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với sân hận đã sanh, nay được đoạn diệt, vị
ấy tuệ tri như vậy; và với sân hận đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi
nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có hôn trầm thụy miên, tuệ tri: "Nội
tâm tôi có hôn trầm thụy miên"; hay nội tâm không có hôn trầm thụy miên,
tuệ tri: "Nội tâm tôi không có hôn trầm thụy miên". Và với hôn trầm
thụy miên chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với hôn trầm thụy
miên đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với hôn trầm thụy
miên đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy.
Hay nội tâm có trạo hối, tuệ tri: "Nội tâm tôi có trạo hối"; hay nội
tâm không có trạo hối, tuệ tri: "Nội tâm tôi không có trạo hối". Và với
trạo hối chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với trạo hối đã
sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy; và với trạo hối đã được đoạn diệt,
tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có nghi, tuệ
tri: "Nội tâm tôi có nghi"; hay nội tâm không có nghi, tuệ tri:
"Nội tâm tôi không có nghi". Và với nghi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy
tuệ tri như vậy; và với nghi đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri như vậy;
và với nghi đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy tuệ tri như
vậy.
Như vậy vị ấy sống quán
pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán
pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các
pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt
trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm
như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương
tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo
sống quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm thủ uẩn. Này các Tỷ-kheo, thế
nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với năm thủ uẩn? Này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo suy tư: "Đây là sắc, đây là sắc tập, đây là sắc diệt. Đây là thọ,
đây là thọ tập, đây là thọ diệt. Đây là tưởng, đây là tưởng tập; đây là tưởng
diệt. Đây là hành, đây là hành tập, đây là hành diệt. Đây là thức, đây là thức
tập, đây là thức diệt". Như vậy, vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp;
hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp,
ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán
tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp.
"Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng
hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước
một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên
các pháp đối với năm thủ uẩn.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với sáu nội ngoại xứ. Này các Tỷ-kheo,
thế nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với sáu nội ngoại xứ? Này
các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo tuệ tri con mắt và tuệ tri các sắc, do duyên hai
pháp này, kiết sử sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử chưa sanh
nay sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã sanh nay được đoạn diệt,
vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sanh
khởi nữa, vị ấy tuệ tri như vậy... tuệ tri tai và tuệ tri các tiếng... tuệ tri
mũi và tuệ tri các hương... tuệ tri lưỡi... và tuệ tri các vị... tuệ tri thân
và tuệ tri các xúc, tuệ tri ý và tuệ tri các pháp; do duyên hai pháp này, kiết
sử sanh khởi, vị ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử chưa sanh nay sanh khởi, vị
ấy tuệ tri như vậy; và với kiết sử đã sanh nay được đoạn diệt, vị ấy tuệ tri
như vậy; và với kiết sử đã được đoạn diệt, tương lai không sanh khởi nữa, vị ấy
tuệ tri như vậy. Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán
pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay
vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên
các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những pháp ở
đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh
trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật gì
trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối
với sáu nội ngoại xứ.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác chi. Này các Tỷ-kheo, thế
nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bảy Giác chi? Này các Tỷ-kheo,
ở đây Tỷ-kheo nội tâm có niệm giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi có niệm giác
chi"; hay nội tâm không có niệm giác chi, tuệ tri: "Nội tâm tôi không
có ý niệm giác chi". Và với niệm giác chi chưa sanh nay sanh khởi, vị ấy
tuệ tri như vậy, và với niệm giác chi đã sanh, nay được tu tập viên thành, vị ấy
tuệ tri như vậy. Hay nội tâm có trạch pháp giác chi... (như trên)... hay nội
tâm có tinh tấn giác chi... (như trên)... hay nội tâm có hỷ giác chi... (như
trên)... hay nội tâm có khinh an giác chi... (như trên)... hay nội tâm có định
giác chi... (như trên)... hay nội tâm có xả giác chi, tuệ tri: "Nội tâm
tôi có xả giác chi"; hay nội tâm không có xả giác chi, tuệ tri: "Nội
tâm tôi không có xả giác chi". Và với xả giác chi chưa sanh nay sanh khởi,
vị ấy tuệ tri như vậy, và với xả giác chi đã sanh nay được tu tập viên thành, vị
ấy tuệ tri như vậy. Như vậy vị ấy sống quán pháp trên các nội pháp; hay sống
quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống quán pháp trên các nội pháp, ngoại
pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp; hay sống quán tánh diệt
tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. "Có những
pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến
chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương tựa, không chấp trước một vật
gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối
với Bảy Giác chi.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo,
vị ấy sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh đế. Này các Tỷ-kheo, thế
nào là Tỷ-kheo sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh đế? Này các Tỷ-kheo,
ở đây, Tỷ-kheo như thật tuệ tri: "Đây là Khổ"; như thật tuệ tri:
"Đây là Khổ tập"; như thật tuệ tri: "Đây là Khổ diệt"; như
thật tuệ tri: "Đây là Con đường đưa đến Khổ diệt". Như vậy, vị ấy sống
quán pháp trên các nội pháp; hay sống quán pháp trên các ngoại pháp; hay sống
quán pháp trên các nội pháp, ngoại pháp. Hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên
các pháp; hay sống quán tánh diệt tận trên các pháp; hay sống quán tánh sanh diệt
trên các pháp. "Có những pháp ở đây", vị ấy sống an trú chánh niệm
như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy sống không nương
tựa, không chấp trước một vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo
sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh đế”.
Như vậy ta thấy, Tứ Niệm Xứ là hành
trình độc nhất để hành thiền, một pháp môn giác ngộ giải thoát khỏi dòng bôc
lưu sanh tử. Chúng ta đã biết dòng tâm thức luôn trôi chảy không ngừng nghỉ, đó
là biến thể của chơn tâm; vậy làm sao loại ra biến thể đó tức là xa lìa vọng tâm chỉ nắm bắt
ròng chơn tâm. Theo duy thức học hay tâm lý thường thức, sáu căn (nhãn, nhĩ, tĩ,
thiệt, thân, ý) kết hợp với sáu trần sanh ra lục thức hay là tâm thức còn gọi
là lục tặc hay vọng tâm. Vọng tâm hay dòng tâm thức luôn trôi chảy là cái đang
là không thể nắm bắt được. Chỉ có thực tại điểm thực có trong động tác đang là
thì tuệ tri có thể nhắm trúng và bắt gặp tại đó là lúc đó mà thôi (điểm sát na
hiện tiền: vô thời không). Thí dụ, thấy con bò đang đến, ta tuệ tri (Biết) có
tánh thấy, tức nhiên là khi tuệ tri ngay một thực tại điểm đến (tại điểm đến tại
đó và lúc đó mà thôi) trong cái đang đến, vì cái con bò đang đến là những điểm
sanh diệt từng sát na liên tục. Do đó thấy con bò đến thì ta biết có tánh thấy
tại một điểm đến mà thôi. Cái biết đó trong một chớp mắt, thấy biết bình đẳng,
cái biết ấy kể như một điểm không có thời
gian. Biết đó cũng gọi là chơn tâm vì không có thời gian để tâm thức trôi chảy
mà có ái thủ hữu, có quan niệm thiện ác v.v..., hay có tư tưởng vọng tâm. Cái
biết đó thật thanh tịnh, không động, không rung chuyển, là một điểm có thật
trong dòng tâm thức (vọng tâm) và đã loại vọng tâm rồi; đó là tuệ tri (hay chơn
tâm). Từ những giá trị vô giá đó của Kinh, chúng ta thấy được rằng việc giác ngộ
không phải là sự cầu khẩn, van xin mà là một sự thay đổi về cái nhìn của thực tại
về thân tâm và cũng như vạn pháp. Sự giác ngộ ấy không nằm ngoài tấm thân tứ đại
này và dĩ nhiên từ trong thân này đi tìm lấy
giác ngộ cũng không ra. Hay nói khác hơn, Phật tánh không nằm trong mà
cũng không năm ngoài sắc thân này, Phật tánh là giây phút hiện tại đang diễn ra
như thể nó đang là.!
Để khẳng định một lần nữa tầm quan trọng
của tứ niệm xứ - con đường duy nhất đưa đến sự giải thoát và giác ngô, đức phật
đã đúc kết lại như sau và không thể thấy một lời kết nào hay hơn thế nữa cho
bài viết nên tạm mượn lời Phật kết luận luôn cho bài viết vậy.
“Này
các Tỷ-kheo, vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này như vậy trong bảy năm, vị ấy có thể
chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại,
hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, không cần gì đến
bảy năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này như vậy trong sáu năm, trong năm
năm, trong bốn năm, trong ba năm, trong hai năm, trong một năm, vị ấy có thể chứng
một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu
còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, không cần gì đến một
năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong bảy tháng, vị ấy có thể chứng một
trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn
hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, không cần gì bảy tháng, một
vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong sáu tháng, trong năm tháng, trong bốn
tháng, trong ba tháng, trong hai tháng, trong một tháng, trong nửa tháng, vị ấy
có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện
tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, không cần
gì nửa tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong bảy ngày, vị ấy có thể chứng
một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hai là nếu
còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn... Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc
nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu,
thành tựu Chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Đó là Bốn Niệm xứ”.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét